Lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh trở lại ở nhiều kỳ hạn

LÃI SUẤT LIÊN NGÂN HÀNG QUA ĐÊM TĂNG 3,56%

Chốt ngày 7/4, lãi suất VND liên ngân hàng thanh toán giao dịch quanh mức : qua đêm 5,06 % ( + 3,56 % so với phiên cuối tuần trước đó ) ; 1 tuần 5,2 % ( + 3 % ) ; 2 tuần 5,33 % ( + 2,6 % ) ; 1 tháng 5,56 % ( + 1,06 % ) .
Lãi suất USD liên ngân hàng tăng nhẹ ở kỳ hạn qua đêm và 1 tuần, giảm nhẹ ở những kỳ hạn còn lại. Phiên cuối tuần 7/4, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức : qua đêm 4,63 % ( + 0,01 % ) ; 1 tuần 4,75 % ( + 0,02 % ) ; 2 tuần 4,88 % ( – 0,02 % ) và 1 tháng 5,0 % ( không biến hóa ) .
Lãi suất trên yhị trường liên ngân hàng tuần từ 3-7/4/2023.
Lãi suất trên yhị trường liên ngân hàng tuần từ 3-7/4/2023.

Theo thống kê của nhóm điều tra và nghiên cứu MSB, trên thị trường mở tuần từ 3/4 – 7/4, Ngân hàng Nhà nước chào thầu 40.000 tỷ đồng trên kênh cầm đồ, kỳ hạn 28 ngày với lãi suất 5 %, có gần 4.400 tỷ đồng khối lượng trúng thầu và không có khối lượng đáo hạn. Ngân hàng Nhà nước không chào thầu tín phiếu và cũng không có tín phiếu đáo hạn trong tuần qua. Như vậy, Ngân hàng Nhà nước bơm ròng ra thị trường gần 4.400 tỷ trải qua nhiệm vụ thị trường mở .

Khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố hiện tại tăng lên mức 5.600,91 tỷ VND, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước giữ ở mức 110.699,8 tỷ VND.

Trên thị trường trái phiếu ngày 5/4, Kho bạc Nhà nước kêu gọi 12.500 tỷ đồng trải phiếu cơ quan chính phủ, khối lượng trúng thầu là 7.243 tỷ đồng ( đạt 60 % ). Trong đó, kỳ hạn 5 năm kêu gọi được 1.903 / 4.500 tỷ đồng gọi thầu, 10 năm là 2000 / 3.000 tỷ, 15 năm là 2.369 / 3.000 tỷ và 30 năm là 971 / 1.500 tỷ. Lãi suất trúng thầu những kỳ hạn lần lượt tại 5 năm 2,80 % ( – 0,13 % so với lần trúng thầu trước ) ; 10 năm 3,30 % ( – 0,15 % ), 15 năm 3,40 % ( – 0,20 % ), và 30 năm 3,66 % ( – 0,14 % ). Tuần vừa mới qua từ không có trái phiếu cơ quan chính phủ đáo hạn .
Về kế hoạch đấu thầu, trong tuần 10/04 – 14/4, Kho bạc Nhà nước dự kiến gọi thầu 7.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ nước nhà, trong đó kỳ hạn 5 năm gọi 2 nghìn tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm gọi 2000 tỷ đồng và kỳ hạn 15 năm gọi 3.000 tỷ .
Giá trị thanh toán giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 7.633 tỷ đồng / phiên, tăng so với mức 5.205 tỷ đồng / phiên của tuần trước đó. Trong tuần qua, lợi suất trái phiếu chính phủ nước nhà phân hóa, giảm ở những kỳ hạn từ 5 năm trở xuống và tăng ở những kỳ hạn 7 năm – 15 năm. Chốt phiên 7/4, lợi suất trái phiếu cơ quan chính phủ thanh toán giao dịch quanh 1 năm 2,78 % ( – 0,15 % ) ; 2 năm 2,88 % ( – 0,05 % ) ; 3 năm 2,8 % ( – 0,12 % ) ; 5 năm 2,87 % ( – 0,075 % ) ; 7 năm 3,06 % ( + 0,26 % ) ; 10 năm 3,37 % ( + 0,13 % ) ; 15 năm 3,52 % ( + 0,1 % ) ; 30 năm 3,88 % ( – 0,04 % ) .

TỶ GIÁ GIẢM NHẸ NHƯNG ĐÀ GIẢM CHẬM LẠI

Trong tuần từ 3/4 – 7/4, tỷ giá TT được Ngân hàng Nhà nước kiểm soát và điều chỉnh tăng giảm nhẹ luân phiên. Chốt ngày 7/4, tỷ giá TT được niêm yết ở mức 23.603 VND / USD, tăng nhẹ 03 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. Ngân hàng Nhà nước liên tục niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.450 VND / USD ; tỷ giá bán giao ngay ở mức 24.780 VND / USD 4 phiên đầu tuần, phiên cuối tuần ở mức 24.733 VND / USD .

Tỷ giá liên ngân hàng tiếp tục giảm trong tuần qua, tuy nhiên đà giảm đã chậm lại. Chốt phiên giao dịch cuối tuần 7/4, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 23.450 VND/USD, giảm nhẹ 9 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.

Tỷ giá trên thị trường tự do dịch chuyển tăng / giảm xen kẽ trong tuần qua. Chốt phiên 7/4, tỷ giá tự do giảm 10 đồng ở chiều mua vào trong khi đi ngang ở chiều bán ra so với tuần trước đó, thanh toán giao dịch tại 23.410 VND / USD và 23.470 VND / USD .
Trong tuần này, thị trường chờ đón tài liệu lạm phát kinh tế tại Mỹ, gồm có CPI toàn phần và CPI lõi, được công bố vào tối thứ Tư ngày 12/4 theo giờ Nước Ta .
Tuần qua, Mỹ ghi nhận nhiều chỉ báo kinh tế tài chính quan trọng. Đầu tiên, PMI nghành nghề dịch vụ sản xuất và nghành nghề dịch vụ dịch vụ tại Mỹ do ISM khảo sát lần lượt ở mức 46,3 % và 51,2 % trong tháng 3, cùng giảm so với 47,7 % và 55,1 % của tháng 2, đồng thời cùng thấp hơn mức 47,5 % và 54,3 % theo dự báo. Tại thị trường lao động, nước Mỹ tạo ra 9,93 triệu thời cơ việc làm trong tháng 2, thấp hơn khá nhiều so với mức 10,56 triệu của tháng trước đó và cũng thấp hơn mức 10,49 triệu theo dự báo. Đây cũng là mức thời cơ việc làm thấp nhất kể từ tháng 6/2021 .

 

Công cụ dự báo của CME cho thấy có 71% khả năng Fed sẽ tăng lãi suất 25 điểm cơ bản trong cuộc họp ngày 3/5, và chỉ có 29% khả năng giữ lãi suất không đổi ở mức 5%.

Trong tuần kết thúc ngày 1/4, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ ở mức 228 nghìn đơn, giảm so với mức 246 nghìn đơn của tuần trước đó ( kiểm soát và điều chỉnh lên từ mức 198 nghìn đơn theo báo cáo giải trình sơ bộ ) và cao hơn khá nhiều so với mức 200 nghìn đơn theo dự báo. Trung bình 4 tuần gần nhất, số đơn ở mức 238 nghìn đơn, cao hơn so với khoảng chừng 205 nghìn đơn ở thời gian trước khi diễn ra dịch Covid-19. Nói riêng trong tháng 3, thị trường lao động tại Mỹ vẫn cho thấy sự sáng sủa. Thu nhập trung bình theo giờ của người lao động tăng 0,3 % m / m trong tháng vừa mới qua, tiếp nối đuôi nhau đà tăng 0,2 % của tháng 2 và khớp với dự báo. Bên cạnh đó, nước Mỹ cũng tạo ra 236 nghìn việc làm phi nông nghiệp mới trong tháng 3, thấp hơn 326 nghìn của tháng 2 và cao hơn một chút ít so với mức 228 nghìn theo dự báo. Cuối cùng, tỷ suất thất nghiệp tại Mỹ trong tháng 3 giảm xuống còn 3,5 %, trái với dự báo đi ngang ở mức 3,6 % .

Sau khi những thông tin về thị trường lao động được công bố, công cụ dự báo của CME cho thấy có 71 % năng lực Fed sẽ tăng lãi suất 25 điểm cơ bản trong cuộc họp ngày 3/5, và chỉ có 29 % năng lực giữ lãi suất không đổi ở mức 5 % .

Alternate Text Gọi ngay