“Đi chùa để làm gì? Vì sao quý vị đến chùa?”
ĐI CHÙA ĐỂ LÀM GÌ?
Nguyễn Linh Chi
Từ xưa đến nay, đi lễ chùa – một hoạt động gắn liền với đạo Phật đã trở thành một tập tục đẹp luôn được duy trì trong mỗi người con, mỗi gia đình Việt. Tuy nhiên, không phải ai đến chùa cũng có những mục đích giống nhau. Chúng ta hãy cùng lắng nghe những tâm sự của các phật tử.
Đầu tháng 4 năm 2015, theo gợi ý của thầy giáo, chúng tôi đã có khảo sát trong phạm vi nhỏ tại một số ngôi chùa ở Hà Nội với các phật tử, những người yêu mến đạo Phật câu hỏi “Đi chùa để làm gì? Vì sao quý vị đến chùa?”. Theo đó, dựa trên kết quả khảo sát, chúng tôi tạm chia thành 4 nhóm đối tượng thường hay đến chùa.
Bạn đang đọc: “Đi chùa để làm gì? Vì sao quý vị đến chùa?”
Đi chùa theo truyền thống gia đình
Trong số những người được phỏng vấn, chúng tôi ước tính có khoảng chừng 50 % số người đi lễ chùa là theo truyền thống cuội nguồn mái ấm gia đình. Từ đời này qua đời khác với những nhà theo đạo Phật từ lâu thì việc đi lễ chùa đã trở thành một hoạt động giải trí thường ngày. Họ đi đến chùa để cầu xin từ chuyện cầu bình an, sức khỏe thể chất đến việc mong “ trời Phật phù hộ ” cho tác dụng học tập của con cháu, hay chuyện làm ăn, kinh doanh sẽ thuận tiện và ngày càng tốt hơn. Thông thường, mọi người sẽ đi chùa vào những ngày Rằm và mồng Một hằng tháng hoặc khi có những sự kiện Phật giáo. Một phật tử ở chùa Bà Đá ( TP. Hà Nội ) tâm sự : “ Bác luôn mong cầu mái ấm gia đình được niềm hạnh phúc, con gái ngoan hiền, học giỏi. Trong kí ức của bác, những ngày theo mẹ đi lễ chùa xưa chỉ để nhặt xác pháo, xin lộc đầu năm, nay lớn lên rồi thì biết cầu mong cho bản thân. Đi chùa thì chỉ nên cầu bình an, còn tài lộc, sự thăng quan tiến chức đều phải dựa vào năng lượng bản thân cùng một chút ít như mong muốn ”. Bà Hiền một phật tử chùa Pháp Vân ( TP.HN ) san sẻ : “ Bà hay đi chùa vào những ngày Rằm, mồng Một, dịp nghỉ lễ Phật giáo, Tết Nguyên đán hoặc những ngày mái ấm gia đình có việc hệ trọng, bà luôn thành tâm cầu khấn hồng ân chư Phật, chư đại Bồ Tát, Hiền Thánh tăng gia hộ cho bản thân và mái ấm gia đình mạnh khỏe, tai qua nạn khỏi, hạn ách tiêu trừ, mái ấm gia đình hòa thuận ”.
Đi chùa vì đạo Phật là đạo của trí tuệ
Ngoài ra, cũng có những phật tử đã bày tỏ quan điểm rằng họ đến chùa để học giáo lý nhà Phật, để hiểu được lý Nhân – Quả sao cho sống tốt hơn, tìm sự bình an cho mái ấm gia đình. Từ đó hoàn toàn có thể dạy lại cho con cháu sống tốt hơn, hướng thiện hơn ”. Cô Đỗ Hoài Thu – phật tử chùa Hòe Nhai – TP. Hà Nội tâm sự : “ Cô hay đi chùa Trấn Quốc, chùa Hòe Nhai để học điều thiện, giáo lý của đức Phật, tu tâm dưỡng tính, tập từ bi hỷ xả so với tổng thể mọi người trong mái ấm gia đình cũng như ngoài xã hội ”. Như vậy, đạo Phật đã trở thành một triết lý sống, là lý tưởng sống tốt đẹp mà mỗi phật tử luôn muốn hướng tới mỗi khi đến chùa.
Đi chùa để bình tâm và cầu tình duyên
Với thanh thiếu niên thì hầu hết họ đến chùa vì gặp khúc mắc trong đời sống như không thi đỗ vào trường Đại học mình muốn, đau khổ vì chia tay tình nhân, thất nghiệp … Và khi không hề xử lý được những yếu tố khó khăn vất vả, rơi vào trạng thái bế tắc thì họ nghĩ đến chùa. Với họ, đến chùa không những giúp bình tâm trở lại mà nhiều lúc còn giúp họ tìm thấy được con đường hay nói cách khác là cách xử lý những trăn trở của mình. Những năm gần đây, vào dịp đầu năm những bạn trẻ hay rủ nhau đi cầu duyên hay cắt tình duyên ảnh hưởng tác động rất nhiểu đến mặt tâm ý. Thay vì đến chùa để học theo những giáo lý của đức Phật truyền lại qua lời dạy của những Thầy hay trong kinh sách, những bạn trẻ lại hướng đến việc cầu duyên. Việc cầu duyên không sai nhưng quá lạm dụng để nó biến tướng thì không ổn chút nào. Bởi khi cầu duyên không thành những bạn trẻ dù mới ở độ tuổi hai mươi đã rủ nhau đi cắt tình duyên. Như một vòng luẩn quẩn cứ đi từ chùa này đến chùa khác xin làm những khóa lễ mà không biết được mọi sự trên đời đều bởi do nhân quả. Có những việc không phải cầu là có được. Ngoài việc tốn thời hạn, tài lộc của mái ấm gia đình cũng như của bản thân thì việc đi quá nhiều nơi ảnh hưởng tác động rất lớn đến sức khỏe thể chất. Thiết nghĩ, nếu được khuynh hướng đúng đắn chắc những bạn sẽ không mê mờ như vậy.
Đi chùa để giác ngộ
Chùa Tứ Kỳ ( TP.HN ) vì đến đúng ngày tu của đạo tràng niệm Phật nên khi được hỏi về đề tài của mình tôi đã có những câu vấn đáp khác hẳn với những phật tử ở những chùa khác. Vì những phật tử ở đây tu theo pháp môn Tịnh độ, chuyên tụng kinh Vô Lượng Thọ và niệm Phật nên hầu hết mọi người đều vấn đáp “ đến chùa để tu dựa trên tha lực của Phật A Di Đà, đến chùa học Phật, để làm theo những lời Phật dạy, để được giải thoát, được vãng sinh ”. Phật Thích Ca Mâu Ni có lần thuyết giảng : “ Một viên đá dù nhỏ đến mấy mà ném xuống nước thì nó cũng chìm, nhưng nếu một hòn đá dù to đến mấy mà đặt trên bè thì nó cũng nổi ”. Phật tử Diệu Dần san sẻ : “ Thứ 7, Chủ Nhật và thứ Tư là ngày tu của đạo tràng. Cô đến chùa không phải vì đau khổ hay buồn bã như một số ít người thường nghĩ. Với cô, đến chùa vì mọi người xung quanh, vì mái ấm gia đình, vì cha mẹ, vì dòng họ mình. Cô luôn muốn mang sự an vui đến cho mọi người. Cô chỉ nguyện cầu khi lâm mệnh chung thời sẽ được đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc ”. Có một chú phật tử trẻ ngoài 40 cũng có một câu vấn đáp rất hay : “ Chú đi chùa để đi tìm tâm Bồ Đề. Bồ Đề chính là giải thoát. Giải thoát chính là Giác ngộ. Giác ngộ chính là Phật. ”
Như vậy, với những ai chuyên sâu về pháp môn Tịnh độ thì mục đích khi đến chùa của họ đơn giản chỉ là cầu sự giải thoát, để giác ngộ được chân lý của đức Phật A Di Đà, mong cầu được vãng sinh.
_____________________Xem thêm bài viết:
MỤC ĐÍCH ĐI CHÙA
Thích Minh ThànhHỏi: Mục đích chính yếu của việc đi đến chùa là để làm gì?
Đáp : Từ trước đến nay, Phật tử thường xuyên đi đến chùa, hoặc là mỗi ngày, hoặc là mỗi tuần, mỗi nửa tháng với nhiều mục tiêu, chí hướng, nhận định và đánh giá cũng như trình độ hiểu biết khác nhau. Phần nhiều người đi đến chùa với thói quen là lễ Phật và cầu nguyện. Cầu nguyện cho con cháu được thi đậu ; Cầu làm ăn phát đạt, tai qua nạn khỏi, mái ấm gia đình ấm cúng … Có người đi chùa cúng dường để cầu phước. Nhiều khi đem một nải chuối hay một bó nhang để cúng Phật, mà cầu xin đủ thứ việc dài dòng, có câu có kệ rõ ràng. Hoặc muốn cúng dường Tam bảo thật nhiều để đời sau được phước báo tốt đẹp. Thậm chí có người đi đến chùa để xin xăm, bói quẻ … Đó là đi chùa vì những mục tiêu tín ngưỡng dân gian. Hơn nữa, có người đi chùa để được ăn chè xôi hoặc đi chùa vì có nhiều người đông vui, nhất là mấy người bạn già muốn gặp nhau để tâm sự, san sẻ chuyện rất lâu rồi. Người xưa thường nói : ‘ Trẻ vui nhà, già vui chùa ’ chính là chỗ này. Có những người đến chùa theo khunh hướng thân thiện, tức là muốn tìm quý Thầy để trút ‘ bầu tâm sự ’, nào là buồn việc này, lo việc kia … Đó là đến chùa vì mục tiêu san sẻ tình cảm tâm sự. Cũng có những người đi đến chùa hằng ngày chỉ để làm công quả. Sáng sớm đã xuất hiện ở chùa, để nấu nướng, lo cơm nước cho quý Thầy. Hoặc vào những ngày có khóa tu học hay cúng lễ, thì đến chùa lo phụ việc nấu bếp, vệ sinh tượng Phật, quét dọn hay là trồng hoa, chăm nom cây kiểng … Đây là đến chùa vì mục tiêu tạo phước. Cũng có người khá hơn là đi đến chùa để đọc tụng kinh hoặc là tham gia những buổi lễ sám hối vào mỗi nửa tháng. Tất cả những mục tiêu trên đều đúng đắn, không sai, nhưng chưa phải là mục tiêu chính yếu thật sự của việc đi đến chùa. Vì vậy, tuy mọi người đã đi đến chùa trong nhiều năm, nhưng hiệu quả ở đầu cuối là trong lòng của mỗi người vẫn còn đầy dẫy phiền muộn, lo âu và khổ đau, không biết cách nào để diệt trừ hoặc cởi mở. Nhiều khi, càng thao tác nhiều chừng nào thì sự tức bực, phiền muộn càng nhiều chừng đó. Hoặc có người ở chùa làm công quả lâu năm thì tánh tình trở nên khó khăn vất vả hơn những người mới đến chùa lần đầu. Những việc làm ở trên chỉ có phước báo và quyền lợi nhỏ bé, chẳng thể giúp người Phật tử đạt đến mục tiêu cốt yếu nhất của việc đi chùa là học Phật, cầu giải thoát. Mà thật ra, mục tiêu chính yếu của việc đi đến chùa hoàn toàn có thể nói gọn chỉ trong bốn chữ là ‘ Đi chùa tìm đạo ’. Người Phật tử sau khi quy y Tam bảo và thọ trì năm giới xong chưa phải là xong việc, mà cần phải thường xuyên lui tới chùa tìm gặp những vị thầy để tham hỏi những nghĩa lý của tầm cỡ và nương theo sự chỉ dạy của những vị ấy để thấy được con đường tu hành đúng đắn tương thích với đạo lý để hoàn toàn có thể ứng dụng tu hành làm tăng trường trí tuệ, từ bi, tránh khỏi sự mê tín dị đoan ở trong đạo Phật và có được quyền lợi an vui thiết thực trong đời sống.
Thích Minh Thành
Xem thêm bài viết khác:
ĐI CHÙA ĐỂ LÀM GÌ
Mạnh Kim | VOA
trở thành chuỗi “đại họa” đưa Phật giáo lao vào thực trạng khủng hoảng chưa từng thấy. Từ các vụ nhà sư trác táng đến cơn lốc “buôn thánh, bán thần”, Phật giáo đang tận mắt chứng kiến sự hỗn loạn cực độ. Nhà chùa, có nơi, trở thành “cơ sở tôn giáo”; trong khi “cán bộ tôn giáo”, có chỗ, khoác áo nhà sư; và “Phật tử” thì u u mê mê ngưỡng vọng vào tà ma, quỷ thuyết…
Chùa nhiều, Phật “đông” nhưng “quỷ ma” nhan nhản. Những bức tượng Phật “cao nhất Đông Nam Á” và những ngôi chùa “lớn nhất Đông Nam Á” đã mọc lên trên một vương quốc có những điều tồi tệ, vốn bị nghiêm cấm trong giáo lý nhà Phật, có lẽ cũng thuộc vào hạng nhất nhì Đông Nam Á, từ đánh cắp, hiếp dâm, đến thậm chí giết bố mẹ ruột… Cuộc khủng hoảng đạo đức xã hội, thật mỉa mai cùng cực, lại tỷ suất thuận với cơn lốc xây chùa và cơn sốt đi chùa. Chùa chiền đang được “xã hội hóa” thì tại sao giáo lý Phật giáo đã không được “xã hội hóa” để giúp xã hội tốt hơn, con người sống tốt hơn, lòng người chân thành hơn, tâm lý chúng sinh bình an hơn? Nếu nhà chùa đang gieo “nhân” tốt thì tại sao “quả” gặt được lại kinh điển đến vậy? Luật “nhân-quả” nào có thể lý giải điều này? Thực tế thì sự bùng nổ chùa chiền đã gieo những cái “nhân” khác, hơn là “nhân” đạo lý. Khó có thể có cái “quả” tốt, khi mà chính nhà chùa và nhà sư trong đó, đã tự gạt ra yếu tố đạo đức cá thể và phẩm hạnh nhà tu, để trở thành một phần của cái gọi là thị trường “buôn thánh, bán thần”.“Phật giả”, “giả Phật”; “chùa giả”, “giả chùa”; “tăng giả”, “giả tăng”. Chỉ có điều này là thật: “Mạt pháp”! “Phật thật” đang khóc (có lẽ vậy).“Phật giả” vừa
đếm tiền vừa cười (hẳn thế). “Bồ tát thật” đang tụng niệm để Phật giáo thoát khỏi kiếp nạn tai ương. “Bồ tát giả” thì lần tràng hạt “phổ độ chúng sinh” bằng ngoa ngôn ma mị.Câu hỏi lớn nhất cần được chăm sóc không chỉ là thực trạng “kinh doanh” Phật giáo mà còn là tại sao ngày càng có nhiều Phật tử không nhìn thấy được “Phật giả” trong những kiến trúc “giả chùa”? Những hàng hàng lớp lớp người đi chùa không cho thấy Phật giáo đang phát triển. Mà là ngược lại. Nhang khói càng nghi ngút, dường như, càng che mờ
con đường
giác ngộ đích thực mà giáo lý Phật giáo truyền dạy. “Đi chùa viếng Phật” – một nét văn hóa truyền thống tôn giáo trang nghiêm gắn liền với văn hóa truyền thống dân tộc – đã biến thành một hoạt động giải trí “đi mua sắm” để mua đủ các thứ mà “thị trường” ngoài đời không thể mua, từ giấc mơ, khát vọng, đến danh và “lộc”. “Bồ tát nào “chứng”, “Phật” nào “chứng”? Cơn lốc xây chùa có thể không bùng nổ nếu những kẻ “buôn thánh, bán thần” không “nắm bắt” được “tâm lý” và “nhu cầu thị trường”.
Trong What The Buddha Taught – một trong những tác phẩm tầm cỡ và cơ bản về giáo lý Phật giáo, Hòa thượng Walpola Rahula (1907-1997) viết:
“Theo Phật học, vị trí của con người là tối thượng. Con người là chủ nhân của chính mình, và không có một thực thể hay quyền lực nào cao hơn để định đoạt số phận của nó. Đức Phật dạy: “Người ta là nơi phụ thuộc của chính mình, còn ai khác nữa có thể làm nơi nương tựa?”. Ngài khuyên các môn đệ hãy là “một nơi phụ thuộc cho chính mình” và không bao giờ nên tìm nơi lệ thuộc hay sự giúp đỡ của bất cứ người nào khác. Ngài giảng dạy, khuyến khích và cổ vũ mỗi người hãy tự mở mang và tìm sự giải thoát cho chính mình, vì con người có năng lượng giải thoát mình ra khỏi mọi ràng buộc, bằng trí tuệ và nỗ lực riêng. Đức Phật dạy: “Các người nên làm công việc của mình, vì các Đức Như Lai chỉ dạy con đường mà thôi”. Nếu Đức Phật được gọi là một người “cứu thế” đi nữa thì cũng chỉ có nghĩa rằng Ngài đã tìm ra và chỉ con đường đi đến Giải thoát, Niết Bàn. Nhưng tất cả chúng ta phải bước trên Con đường ấy bằng chính mình” (*).
Trong quyển Thấy Phật, giáo sư Cao Huy Thuần viết: “Ngài ở cùng khắp, Ngài ở chung quanh tất cả chúng ta, ai cũng có thể thấy Ngài nếu tâm sáng, và tùy tâm sáng đến đâu thì thấy Phật rõ đến đấy. Niệm Phật là làm cho tâm sáng và tâm sáng thì Phật hiện, bởi vì Phật ở cùng khắp thì tất nhiên Phật cũng ở trong tâm ta… Ai đi sâu vào Phật học sẽ thán phục mối tương quan sâu thẳm giữa trí tuệ và lòng tin. Trong Phật giáo, lòng tin luôn dựa trên trí tuệ, và trí tuệ chỉ có thể sáng chiếu đến chân lý nếu được lòng tin hỗ trợ. Thấy Phật cũng chỉ thông thường vậy thôi. Không phải ở trên ngôi sao kia, mà ở ngay trong lòng. Ra đời cách đây 2.546 năm, Đức Phật vẫn còn ở quanh ta để luôn nói với ta tiếng nói từ trong tâm, rằng: Ta đã sinh làm người, và từ người, chứ không từ đâu khác, từ Ta, từ chính Ta, Ta đã chứng ngộ…”.
Thật khó có thể đòi hỏi một người “bình dân” “thấy” được Phật như cách ông Cao Huy Thuần “thấy” hoặc nhìn ra được “Con đường” để đi bằng chính mình như cách Hòa thượng Walpola Rahula viết. Tuy nhiên, Phật giáo là uyên bác nhưng Phật tử thì không cần tu học đến uyên bác như các bậc Tuệ Sĩ hay Lê Mạnh Thát để hiểu thấu đáo Phật pháp. Muốn “thấy Phật” không phải là điều bất khả. Ai cũng có thể “thấy” rằng, Phật không ở trong chùa; Phật ở trong tâm. Không Phật tử nào mà không ít nhất một lần nghe như vậy. Chưa có bất kỳ quyển giáo lý hoặc triết học Phật giáo nào nhắc đến những hành vi mê tín dị đoan ngưỡng vọng như là “phương tiện” để được chứng giám sự “thành tâm” hoặc để giúp tìm đến chân lý tối thượng của đạo Phật. Có thể có những Phật tử tu và hành cả đời theo những gì giáo lý Phật giáo truyền dụ cũng chưa “gặp” được Phật nhưng chắc như đinh rằng họ sẽ chẳng bao giờ “thấy” được Phật cho dù họ đi chùa bao nhiêu lần, quỳ lạy tượng Phật bao nhiêu cái và “cúng dường” bao nhiêu tiền. Chừng nào còn mang đến chùa những thứ mà Phật giáo cơ bản khuyên dạy cần phải buông bỏ, chừng nào mà trí còn loạn và tâm còn “đóng” trước cửa nhà Phật thì làm sao có thể “thấy” được Phật ngay cả khi tượng Phật sờ sờ trước mắt?Những gì đang diễn ra đãchuỗi “ đại họa ” đưalao vàokhủng hoảng chưa từng thấy. Từ những vụđến cơn lốc “ buôn thánh, bán thần ”, đangsự. Nhà chùa, có nơi, “ cơ sở tôn giáo ” ; trong khi “ cán bộ tôn giáo ”, có chỗ, khoác áo ; và “ Phật tử ” thì umê ngưỡng vọng vào, quỷ thuyết … Chùa nhiều, Phật “ đông ” nhưng “ quỷ ma ”. Những bức “ cao nhất Khu vực Đông Nam Á ” và những ngôi chùa “ lớn nhất Khu vực Đông Nam Á ” đã mọc lên trên mộtcó những điều, vốn bịtrongnhà Phật, có lẽ rằng cũng thuộc vào hạng nhất nhì Khu vực Đông Nam Á, từ, hiếp dâm, đến thậm chí còn giết cha mẹ ruột … Cuộc khủng hoảng cục bộ, thậtcùng cực, lạithuận với cơn lốc xây chùa và cơn sốt. Chùa chiền đang được “ xã hội hóa ” thì tại saođã không được “ xã hội hóa ” để giúpsống, lòng ngườihơn, hơn ? Nếu nhà chùa đang gieo “ nhân ” tốt thì tại sao “ quả ” gặt được lạiđến vậy ? Luật “ nhân-quả ” nào có thểđiều này ? thì sựchùa chiền đã gieo những cái “ nhân ” khác, hơn là “ nhân ”. Khó hoàn toàn có thể có cái “ quả ” tốt, khi mà chính nhà chùa vàtrong đó, đã tự gạt ravà phẩm hạnh, đểmột phần của cái gọi là thị trường “ buôn thánh, bán thần ”. “ Phật giả ”, “ giả Phật ” ; “ chùa giả ”, “ giả chùa ” ; “ tăng giả ”, “ giả tăng ”. Chỉ có điều này là thật : “ Mạt pháp ” ! “ Phật thật ” đang khóc ( có lẽ rằng vậy ). “ Phật giả ” vừađếm tiền vừa cười ( hẳn thế ). “ Bồ tát thật ” đangđểkiếp nạn. “ Bồ tát giả ” thì lần “ phổ độ chúng sinh ” bằngma mị. Câu hỏi lớn nhất cần đượckhông chỉ là “ kinh doanh thương mại ” mà còn là tại sao ngày càng có nhiềukhông nhìn thấy được “ Phật giả ” trong những kiến trúc “ giả chùa ” ? Những hàng hàng lớp lớp ngườikhông cho thấyđang tăng trưởng. Mà là ngược lại. Nhang khói càng, có vẻ như, càng che mờđích thực màtruyền dạy. “ Đi chùa viếng Phật ” – một nétdân tộc – đãmột “ đi shopping ” để mua đủ những thứ mà “ thị trường ” ngoài đời không hề mua, từ giấc mơ, khát vọng, đến danh và “ lộc ”. “ Bồ tát nào “ chứng ”, “ Phật ” nào “ chứng ” ? Cơn lốc xây chùa cónếu những kẻ “ buôn thánh, bán thần ” không “ chớp lấy ” được “ tâm ý ” và “ nhu yếu thị trường ”. Trong What The Buddha Taught – một trong nhữngvàvềWalpola Rahula ( 1907 – 1997 ) viết : “ Theocủalàlà gia chủ của chính mình, và không có mộthaynào cao hơn đểsố phận của nó. dạy : “ Người ta làcủa chính mình, còn ai khác nữa hoàn toàn có thể làm nơi lệ thuộc ? ”. Ngài khuyên cáchãy là “ mộtcho chính mình ” và không khi nào nên tìmhay sự giúp sức của bất kỳ người nào khác. Ngài giảng dạy, khuyến khích và cổ vũ mỗi người hãy tự mở mang và tìmcho chính mình, vìcómình ra khỏi mọi, bằngvàriêng. dạy : “ Các người nên làm việc làm của mình, vì cácchỉ dạymà thôi ”. Nếuđược gọi là một người “ cứu thế ” đi nữa thì cũng chỉ có nghĩa rằng Ngài đãvà chỉđi đến. Nhưngphải bước trênấy bằng chính mình ” ( * ). Trong quyển Thấy Phật, giáo sư Cao Huy Thuần viết : “ Ngài ở cùng khắp, Ngàiquanh, ai cũng hoàn toàn có thể thấy Ngài nếu tâm sáng, vàsáng đến đâu thì thấy Phật rõ đến đấy. là làm cho tâm sáng và tâm sáng thì, chính bới Phật ở cùng khắp thì tất yếu Phật cũng ở trong tâm ta … Ai đi sâu vàosẽmối đối sánh tương quan sâu thẳm giữavà. Trongluôn, vàchỉ hoàn toàn có thể sáng chiếu đếnnếu đượchỗ trợ. Thấy Phật cũng chỉvậy thôi. Không phải ở trên ngôi sao 5 cánh kia, mà ở ngay trong lòng. Ra đời cách đây 2.546 năm, vẫn còn ở quanh ta để luôn nói với ta lời nói từ trong tâm, rằng : Ta đã sinh làm người, và từ người, chứ không từ đâu khác, từ Ta, từ chính Ta, Ta đã chứng ngộ … ”. Thật khó hoàn toàn có thể yên cầu một người “ tầm trung ” “ thấy ” được Phật như cách ông Cao Huy Thuần “ thấy ” hoặc nhìn ra được “ Con đường ” để đi bằng chính mình như cáchWalpola Rahula viết. lànhưngthì khônghọc đếnnhư những bậc Tuệ Sĩ hay Lê Mạnh Thát để hiểu thấu đáo. Muốn “ thấy Phật ” không phải là điều bất khả. Ai cũng hoàn toàn có thể “ thấy ” rằng, Phật không ở trong chùa ; Phật ở trong tâm. Khôngnào mà khôngnghe như vậy. Chưa có bất kể quyểnhoặcnào nhắc đến nhữngngưỡng vọng như thể “ phương tiện đi lại ” để đượcsự “ thành tâm ” hoặc để giúp tìm đếncủa. Có thể có nhữngtu và hànhtheo những gìtruyền dụ cũng chưa “ gặp ” được Phật nhưngrằng họ sẽ chẳng khi nào “ thấy ” được Phật mặc dầu họbao nhiêu lần, quỳ lạybao nhiêu cái và “ cúng dường ” bao nhiêu tiền. cònchùa những thứ màkhuyên dạytrí còn loạn và tâm còn “ đóng ” trước cửa nhà Phật thì làm thế nào hoàn toàn có thể “ thấy ” được Phật ngay cả khitrước mắt ? ( * ) Nguyên văn : Man’s position, according to Buddhism, is supreme. Man is his own master, and there is no higher being or power that sits in judgment over his destiny. “ One is one’s own refuge, who else could be the refuge ? ” said the Buddha. He admonished his disciples to “ be a refuge to themselves ”, and never to seek refuge in or help from anybody else. He taught, encouraged and stimulated each person to develop himself and to work out his own emancipation, for man has the power to liberate himself from all bondage through his own personal effort and intelligence. The Buddha says : “ You should do your work, for the Tathagatas only teach the way. ‘ If the Buddha is to be called a “ saviour ” at all, it is only in the sense that he discovered and showed the Path to Liberation, Nirvana. But we must tread the Path ourselves.
Xem video clip: Đi chùa thế nào cho đúng?
HT. Thích Thanh Nhã – trụ trì chùa Trấn Quốc sẽ giúp quý vị hiểu rõ hơn về một số vấn đề khi đi lễ chùa.
.
Source: https://suadieuhoa.edu.vn
Category : Nhà Cửa