Chùa Hương – Wikipedia tiếng Việt

Chùa Hương là cách nói trong dân gian, trên thực tế chùa Hương hay Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa – tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Trung tâm chùa Hương nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, nằm ở ven bờ phải sông Đáy. Trung tâm của cụm đền chùa tại vùng này chính là chùa Hương nằm trong động Hương Tích hay còn gọi là chùa Trong.

Chùa Thiên Trù trong quần thể chùa Hương
Chùa Hương có lịch sử vẻ vang từ thế kỷ 15. Ngôi chùa được thiết kế xây dựng với quy mô chính vào khoảng chừng cuối thế kỷ 17, sau đó bị hủy hoại trong cuộc chiến tranh Đông Dương năm 1947, sau đó được phục dựng lại từ năm 1989 do Hòa thượng Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hòa thượng Thích Thanh Chân .Khi xưa vua Lê Thánh Tông đi tuần thú qua đây lần thứ 2 vào tháng giêng năm Đinh hợi, niên hiệu Quang thuận thứ 8 ( 1467 ) đã đóng quân nghỉ lại ở thung lũng này và cho quân lính thổi cơm ăn, vua xem thiên văn thấy vùng này lâm vào địa phận của sao Thiên Trù, ( một sao chủ về sự nhà hàng và dịch chuyển ) nên nhân đấy đặt tên là chùa Thiên Trù .

Ba vị Hòa thượng đời vua Lê Thánh Tông 1442 – 1497 đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên thảo am Thiên Trù. Kể từ đó động Hương Tích được gọi là chùa trong, Thiên Trù gọi là chùa ngoài, rồi người ta lấy tên chung cho hai nơi và cả khu vực là chùa Hương hay “Hương Thiên Bảo Sái”.

Sau thời kỳ ba vị Hòa thượng khai sáng, chùa Thiên Trù chùa Hương gián đoạn trụ trì, mãi tới niên hiệu Chính Hòa năm thứ bẩy 1686 của thời vua Lê Trung Hưng. Hòa thượng Trần Đạo Viên Quang, ( tương truyền cũng là một quan chức trong triều đình đã treo ấn từ quan để đi tu ) mới lại liên tục việc làm tạo dựng .Trải qua nhiều đời chư Tổ kiến thiết xây dựng, đến nửa đầu thế kỷ 20, nơi đây được khách thập phương ngợi ca ví như tòa thành tháp trang trọng “ Biệt chiếm nhất Nam thiên ”. Nhưng đáng tiếc ngày 11 tháng 2 năm Đinh Hợi 1947, thực dân Pháp đưa quân vào đây đốt phá, biến Thiên Trù thành đống gạch vụn tro tàn. Năm 1948, giặc lại vào đốt phá lần nữa, rồi năm 1950 quân Pháp lại cho máy bay thả bom khiến cho cao chất ngất mấy tòa cổ sái của Thiên Trù bị san phẳng. Dấu vết xưa của Thiên Trù lúc bấy giờ chỉ còn lại vườn Tháp, trong đó có Bảo Tháp Viên Công, một khu công trình nghệ thuật và thẩm mỹ đất sét của thế kỷ thứ 17 và cây Thiên Thủy Tháp .Năm 1951, Hòa thượng Thanh Chân đã cho dựng lên từ đồng tro tàn đô nát 6 gian nhà tranh đề có nơi tu hành và nhang khói. Vào năm 1989, dưới sự trụ trì của cố Thượng tọa Thích Viên Thành, Ban thiết kế xây dựng Chùa Hương đã thi công tái thiết lại chùa Thiên Trù đến năm 1991 thì khánh thành. Năm 1994, cổng Nam Thiên Môn cũng được triển khai xong, đứng sừng sững giữa núi rừng Hương Sơn. Những năm sau này, tiếp nối Tông phong Hương Tích, Thượng tọa Thích Minh Hiền – trụ trì đời thứ 12 – mở mang kiến thiết xây dựng thêm nhiều khu công trình mới, để đến thời nay, tất cả chúng ta đến đây được chiêm ngưỡng và thưởng thức quần thể kiến trúc nguy nga, hoành tráng, rất đẹp .

Theo cuốn Hương Sơn thiên trù thiền phả, một vị hòa thượng được lệnh của chúa Trịnh (sau khi đi tuần thú) xác định địa điểm và cho xây dựng chùa Hương Tích ở Hà Nội từ đời Lê Huy Tông dưới niên hiệu Chính Hòa (1680 – 1704). Trong khi theo sách Hương Sơn báu quyển, chùa Hương Tích ở Hà Tĩnh là một động cao và khuất, thường có mây mù bao phủ.

Vậy vì sao lại có thêm một chùa Hương Tích “phiên bản” ở phía Bắc? Câu trả lời là vào thời Lê – Trịnh, các vua Lê – chúa Trịnh phần lớn có quê ở xứ Thanh (xem Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái) nên các phi tần, mỹ nữ đa số được chọn tuyển ở miền Hoan Châu. Hằng năm các cung phi, cung nữ Thanh – Nghệ – Tĩnh thường trẩy hội chùa Hương trên núi Hồng Lĩnh vào ngày 18-2 âm lịch bằng đường thủy qua cửa Hội Thống (gần Cửa Lò bây giờ). Mỗi lần những “người đẹp” đi xa như vậy khiến chúa Trịnh rất phân vân (tuy đã bố trí lính vệ phục dịch dọc đường), do đó chúa Trịnh mới gọi một vị hòa thượng xác định địa điểm ở miền rừng núi Hà Sơn Bình để xây chùa Hương Tích thứ hai mà thờ vọng để các “người đẹp” đi trẩy hội gần hơn (theo dẫn giải của ông Bùi Văn Nguyên, nguyên tổng thư ký Hội Văn nghệ dân gian VN). Như vậy nhờ “sáng kiến” của chúa Trịnh mà Việt Nam có hai chùa Hương Tích.[cần dẫn nguồn]

Thuyết này có phần vô lý, vì đời vua Lý Thánh Tông đã đến Vùng Hà Tây ngày này và ngự đặt tên Thiên Trù. Trong tín ngưỡng dân gian, những thầy pháp, thầy thống, thậm chí còn nhà sư, … đều về Vùng Hương Tích – Hà Tây để tìm mua phong khương, địa liền để hành phù, chữa bệnh. Nếu như Hương Tích thật ở TP Hà Tĩnh thì không hề có hành vi này được. Vì tín ngưỡng miền Bắc cho rằng, khi Quan Âm nhập động đã phun nước từ kim khẩu tưới cây nên phong khương, địa liền ở đây có linh tính, rất tốt. mà thần thoại cổ xưa của dân gian thì khó mà ảnh hưởng tác động bởi mệnh lệnh hành chính mà bị xô lệch được. Chùa Hương Hà Tây là một ngôi chùa trọng điểm trong tâm linh dân gian Nước Ta. Dân gian thường truyền tụng : ” Trấn trạch chùa Nhang, trùng tang Liên Phái “, … Trong khi đó, chùa Hương – TP Hà Tĩnh lại ít ai biết đến, không có dấu ấn trong văn hóa truyền thống Nước Ta. Tóm lại, Tên hai chùa có phần giống nhau nhưng mỗi chùa đều có bề dày lịch sử dân tộc, văn hóa truyền thống, tín ngưỡng, kiến trúc Phật giáo, cảnh sắc riêng, không hề gọi là bản gốc hay bản sao .
Quần thể chùa Hương có nhiều khu công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến. Khu vực chính là chùa Ngoài, còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù ( tọa độ : ). Chùa nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng chừng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái. Đây là một khu công trình cổ, dáng dấp độc lạ vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh HĐ Hà Đông, năm 1980 được vận động và di chuyển về chùa Hương làm tháp chuông. [ 1 ]

Chùa Chính, tức chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên (tọa độ: ). Ở lối xuống hang có cổng lớn, trán cổng ghi 4 chữ Hương Tích động môn. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán 南天第一峝 (Nam thiên đệ nhất động) khắc năm 1770, là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1739-1782). Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá.

Hội chùa Hương[sửa|sửa mã nguồn]

Mỗi dịp tết đến xuân về, người dân cả nước lại nô nức hành hương về với đất Phật, tham gia lễ hội chùa Hương.

Đụn Gạo trong chùa Hương
Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội thường lê dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Vào dịp lễ hàng triệu phật tử cùng hành khách khắp bốn phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Hành trình về một miền đất Phật – nơi Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện tu hành. [ 2 ]Đỉnh cao của liên hoan là từ sau Tết Nguyên Đán đến tháng Hai âm lịch. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ triển khai rất đơn thuần. Trước ngày mở hội một ngày, toàn bộ những đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút .Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên ban thờ. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ nhiều lúc mới có sư ở những chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại những chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không khi nào dứt. Về phần lễ có nghiêng về ” thiền “. Nhưng ở chùa ngoài lại thờ những vị sơn thần thượng đẳng với đủ sắc tố của đạo giáo. Đền Cửa Võng là ” chân long linh từ ” thờ bà chúa Thượng Ngàn, là người quản lý cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là ” tì nữ túy Hồng ” của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần .Như vậy, phần lễ là toàn thể mạng lưới hệ thống tín ngưỡng gần như là cả một tổng thể và toàn diện tôn giáo ở Nước Ta ; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Trong liên hoan có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, tinh chỉnh và điều khiển những bô lão của làng làm lễ tế rước những vị thần làng .Lễ hội chùa Hương là nơi quy tụ những hoạt động và sinh hoạt văn hóa truyền thống dân tộc bản địa độc lạ như bơi thuyền, leo núi và những chiếu hát chèo, hát văn … Vào những ngày tổ chức triển khai tiệc tùng, chùa Hương sinh động vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc lạ của hội chùa Hương là nụ cười ngồi thuyền vãn cảnh lạc vào non tiên cõi Phật .

Các đời trụ trì[sửa|sửa mã nguồn]

Chùa Hương trong văn học[sửa|sửa mã nguồn]

Chùa Hương là nguồn gợi hứng cho nhiều tác phẩm thi ca Nước Ta, trong số đó nổi tiếng nhất có lẽ rằng là bài hát nói ” Hương Sơn phong cảnh ca ” của Chu Mạnh Trinh, làm từ thế kỷ 19, lâu nay rất được ca tụng :
Đi thuyền trên suối Yến

Chùa Thiên Trù

Bầu trời, cảnh bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay,
Kìa non non, nước nước, mây mây,
“Đệ nhất động” hỏi rằng đây có phải!
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình:
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt..
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây,…

và bài ” Chùa Hương ” của Nguyễn Nhược Pháp, làm vào thế kỷ 20. Bài này đã được tối thiểu 2 nhạc sĩ phổ nhạc là Trần Văn Khê và Trung Đức :

Hôm qua đi chùa hương
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương

Trong bài này ngoài những câu thơ nhí nhảnh như trên, còn có nhiều câu tả cảnh Hương sơn rất sinh động: Réo rắt suối đưa quanh/Ven bờ ngọn núi xanh/Nhịp cầu xa nho nhỏ/Cảnh đẹp gần như tranh/Sau núi oản -gà-xôi/Bao nhiêu là khỉ ngồi/Đến núi con voi phục/Thấy đủ cả đầu đuôi/Chùa lấp sau rừng cây/(Thuyền ta đi một ngày)/Lên cửa chùa em thấy/Hơn một trăm ăn mày…

Tản Đà rất mến cảnh chùa Hương, ông làm nhiều câu thơ rất đặc sắc về cảnh và tình ở đây:

Chùa Hương trời điểm lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy Thu
Xuân lại xuân đi không dấu vết
Ai về ai nhớ vẫn thơm tho.
Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt
Đá hỏm hang đen tối tối mò.
Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối
Phàm trần chưa biết, nhắn nhe cho.

Ông còn có 1 bài thơ nổi tiếng về món đặc sản nổi tiếng ở chùa Hương :

Muốn ăn rau sắng chùa Hương
Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa
Mình đi, ta ở lại nhà
Cái dưa thì khú cái cà thì thâm.

Về văn xuôi, có bút ký Trẩy hội Chùa Hương của Phạm Quỳnh …Nữ sĩ Hồ Xuân Hương tương truyền là tác giả bài thơ vịnh động Hương Tích như sau [ 3 ] :

Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
Người quen cõi Phật quen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
Con thuyền vô trạo cúi lom khom
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại
Rõ khéo Trời già đến dở dom.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Alternate Text Gọi ngay