Winston Churchill – Wikipedia tiếng Việt
Sir Winston Leonard Spencer Churchill[a] (phiên âm tiếng Việt: Uyn-xtơn Sớc-sin; 30 tháng 11 năm 1874 – 24 tháng 1 năm 1965) là một chính khách, binh sĩ và cây bút người Anh. Ông từng hai lần giữ cương vị Thủ tướng Vương quốc Anh: lần một từ năm 1940 đến năm 1945 trong Thế chiến thứ hai, và lần hai từ năm 1951 đến năm 1955. Ngoại trừ từ năm 1922 đến năm 1924, ông là Nghị sĩ quốc hội (MP) từ năm 1900 đến năm 1964, đại diện cho tổng cộng 5 khu vực bầu cử thuộc Vương quốc Anh. Với hệ tư tưởng ngả về chủ nghĩa tự do kinh tế và chủ nghĩa đế quốc, ông là thành viên của Đảng Bảo thủ suốt phần lớn sự nghiệp trên chính trường, thậm chí từng lãnh đạo đảng này từ năm 1940 đến năm 1955. Ngoài ra, ông tham gia Đảng Tự do từ năm 1904 đến năm 1924.
Churchill chào đời tại Oxfordshire trong gia đình Spencer giàu sang và quyền quý, mang cả gốc Anh lẫn Mỹ. Ông gia nhập Quân đội Anh vào năm 1895, từng tham chiến tại Ấn Độ thuộc Anh, Sudan, và Nam Phi, nổi tiếng với vai trò phóng viên chiến sự và những hồi ký kể lại cuộc chiến. Ông được bầu làm MP Bảo thủ vào năm 1900, song từ bỏ để gia nhập Đảng Tự do vào năm 1904. Dưới chính phủ Tự do thời H. H. Asquith, Churchill được bổ nhiệm làm Chủ tịch Sàn giao dịch và Bộ trưởng Nội vụ. Trong giai đoạn này, ông lên tiếng đòi cải cách hệ thống nhà tù và an ninh xã hội cho người lao động. Giữ chức Đệ nhất Đại thần Hải quân hồi Thế chiến thứ nhất, ông là người chịu trách nhiệm chính cho Chiến dịch Gallipoli; song sau khi rõ ràng đây là một thảm bại hoàn toàn, Churchill bị giáng chức Tướng quốc Lãnh địa Công tước Lancaster. Ông xin từ chức vào tháng 11 năm 1915 để gia nhập trung đoàn Royal Scots Fusilier ở Mặt trận phía Tây trong vòng 6 tháng. Năm 1917, ông quay về phục vụ cho chính phủ thời David Lloyd George, kiêm nhiệm chức Bộ trưởng Đạn dược, Quốc vụ khanh Chiến tranh, Quốc vụ khanh Không quân, và Quốc vụ khanh Thuộc địa. Ông được giao phó phận sự giám sát Hiệp định Anh-Ireland và chính sách đối ngoại của Đế quốc Anh ở Trung Đông. Sau hai năm ngồi ghế Quốc hội, ông được phong chức Bộ trưởng Ngân khố dưới chính phủ Bảo thủ thời Stanley Baldwin.
Bạn đang đọc: Winston Churchill – Wikipedia tiếng Việt
Nghỉ công vụ trong ” những năm tháng hoang dại ” hồi thập niên 30, Churchill đứng vị trí số 1 nỗ lực lôi kéo chính phủ nước nhà tái vũ trang quân đội để phòng ngừa chủ nghĩa quân quốc đang trỗi dậy ở Đức Quốc xã. Khi Thế chiến thứ hai nổ ra, ông được tái bổ nhiệm chức Đệ nhất Đại thần Hải quân. Tháng 5 năm 1940, ông nối gót Neville Chamberlain nhậm chức Thủ tướng Anh, sau đó giám sát đốc thúc nỗ lực cuộc chiến tranh của phe Đồng minh chống lại phe Trục, thành quả là thắng lợi vào năm 1945. Sau khi Đảng Bảo thủ thất cử trong cuộc tổng tuyển cử năm 1945, Churchill trở thành Lãnh đạo phe Đối lập trong nghị viện Anh. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, ông đã ra thông cáo nổi tiếng rằng, một ” bức màn sắt ” đã buông xuống vì ảnh hưởng tác động sâu rộng của Liên Xô ở Đông Âu, đồng thời liên tục nhấn mạnh vấn đề sự đoàn kết của toàn thể châu Âu. Giữa hai nhiệm kỳ Thủ tướng, ông chắp bút viết nhiều hồi ký về đại chiến và vinh dự nhận Giải Nobel Văn học vào năm 1953. Ông thất cử năm 1950, tuy nhiên tái nhiệm vào năm 1951. nhà nước trong nhiệm kỳ hai của Churchill hầu hết phải xử lý nhiều vấn đền tương quan đến đối ngoại, đặc biệt quan trọng là quan hệ song phương Anh-Mỹ và những di sản của Đế quốc Anh sau khi Ấn Độ giành được độc lập. Về đối nội, Churchill chú trọng vào những chủ trương thiết kế xây dựng nhà tại, cũng như hoàn thành xong dự án Bất Động Sản sản xuất bom hạt nhân được khởi xướng bởi người nhiệm kỳ trước đó. Do sức yếu, ông thôi chức Thủ tưởng vào năm 1955, tuy nhiên vẫn giữ một ghế MP cho tới năm 1964. Churchill qua đời vào năm 1965 ; một lễ quốc tang đã được cử hành để tưởng niệm ông .Được công nhận thoáng đãng là nhân vật lịch sử vẻ vang cực kỳ quan trọng của thế kỷ 20, Churchill vẫn rất nổi tiếng ở những nước Anh ngữ ; những nơi coi ông như một thủ lĩnh thời chiến lỗi lạc, đã góp thêm phần bảo vệ nền tự do dân chủ của châu Âu trước rủi ro tiềm ẩn chủ nghĩa phát xít lan rộng. Tuy vậy, ông cũng hứng chịu nhiều chỉ trích vì 1 số ít sự kiện thời chiến và quan điểm đế quốc chủ nghĩa của mình .
Những Nội Dung Chính Bài Viết
- Tuổi thơ và giáo dục : 1874 – 1895[sửa|sửa mã nguồn]
- Chính trị và Nam Phi : 1899 – 1901[sửa|sửa mã nguồn]
- Nghị sĩ Đảng Bảo thủ : 1901 – 1904[sửa|sửa mã nguồn]
- Nghị sĩ Đảng Tự do : 1904 – 1908[sửa|sửa mã nguồn]
- nhà nước thời Asquith : 1908 – 1915[sửa|sửa mã nguồn]
- Trở lại quân ngũ : 1915 – 1916[sửa|sửa mã nguồn]
- nhà nước thời Lloyd George : 1916 – 1922[sửa|sửa mã nguồn]
- Nghề nghiệp giữa hai đại chiến[sửa|sửa mã nguồn]
- Vai trò Thủ tướng trong đại chiến[sửa|sửa mã nguồn]
- Gia đình và dòng họ[sửa|sửa mã nguồn]
- Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Tuổi thơ và giáo dục : 1874 – 1895[sửa|sửa mã nguồn]
Jennie Spencer Churchill chụp cùng hai cậu con trai, Jack (trái) và Winston (phải), vào năm 1889.
Churchill chào đời ngày 30 tháng 11 năm 1874 tại ngôi nhà truyền kiếp của dòng họ, Cung điện Blenheim ở Oxfordshire. Dòng dõi phía nội của Churchill là quý tộc Anh, theo đó ông là hậu duệ trực tiếp của Đệ nhất Công tước xứ Marlborough. Cha ông, Lord Randolph Churchill, là đại biểu của Đảng Bảo thủ, từng được ứng cử làm Nghị sĩ ( MP ) của Woodstock vào năm 1873. Mẹ ông, Jennie, là con gái của Leonard Jerome, một người kinh doanh người Mỹ giàu sang .Năm 1876, ông nội của Churchill, John Spencer-Churchill, Đệ thất Công tước xứ Marlborough, được chỉ định làm Phó vương Ireland, chủ quyền lãnh thổ mà bấy giờ vẫn thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh-Ireland. Randolph trở thành thư ký riêng của Spencer-Churchill và cả mái ấm gia đình chuyển đến sống ở Dublin. Em trai ông, Jack, chào đời tại đây vào năm 1880. Vào những năm 1880, Randolph và Jennie trở nên xa cách nhau, việc nuôi nấng hai bạn bè do vậy được đảm nhiệm bởi bảo mẫu Elizabeth Everest. Khi bà mất vào năm 1895, Churchill kể lại rằng ” cô ấy là người bạn thân thiện và trìu mến nhất của tôi trong suốt 20 năm cuộc sống ” .Năm lên 7, Churchill khởi đầu học nội trú ở Trường St George tại Ascot, Berkshire, tuy nhiên học không giỏi và nhiều khi tỏ thái độ xấu. Năm 1884, ông chuyển tới học tại Trường Brunswick ở Hove, nơi thành tích học tập khá lên không ít. Tháng 4 năm 1888, lúc 13 tuổi, ông suýt soát vượt qua bài kiểm tra nguồn vào của Trường Harrow. Cha Churchill muốn con trai mình chuẩn bị sẵn sàng cho binh nghiệp, nên ba năm cuối cấp ở Harrow được dành để rèn luyện quân sự chiến lược cho Churchill. Sau hai nỗ lực bất thành để vào được Học viện Quân sự Hoàng gia, Sandhurst, ông rốt cuộc được nhận ở lần thứ ba, trở thành học viên sĩ quan kỵ binh kể từ tháng 9 năm 1893. Cha ông không may qua đời vào tháng 1 năm 1895, một tháng sau khi Churchill đỗ Sandhurst .
Churchill vận quân phục của Trung đoàn Hussar 4 tại Aldershot vào năm 1895.Tháng 2 năm 1895, Churchill được ủy nhiệm làm thiếu úy của Trung đoàn Hussar 4 thuộc Quân đội Anh, đặt bản doanh tại Aldershot. Do rất muốn tận mắt chứng kiến cảnh quân đội hành động, ông lợi dụng ảnh hưởng của mẹ để được ra ngoài chiến trường. Mùa thu năm 1895, Churchill đồng hành cùng Reggie Barnes tới Cuba để quan sát cuộc chiến tranh giành độc lập ở đây, đồng thời giúp đỡ quân đội Tây Ban Nha đàn áp các chiến sĩ độc lập. Churchill gửi báo cáo chiến sự cho tờ Daily Graphic ở London.[22] Sau đó, ông tiếp tục du hành tới Thành phố New York, và với sự ngưỡng mộ Hoa Kỳ lớn lao, đã viết thư gửi mẹ rằng “người Mỹ quả là một dân tộc phi thường!”. Tháng 10 năm 1896, Churchill cùng đoàn Hussar đổ bộ Bombay, đóng quân ở Bangalore. Trong 19 tháng lưu trú ở Ấn Độ, ông đã tới thăm Calcutta ba lần và tham gia các đoàn viễn chinh tới Hyderabad và North West Frontier.
Ở Ấn Độ, Churchill bắt đầu quá trình tự học, nghiền ngẫm các tác phẩm của Platon, Edward Gibbon, Charles Darwin và Thomas Babington Macaulay do mẹ ông gửi. Hai mẹ con ông cũng thường xuyên trao đổi thư từ với nhau. Vì muốn tìm hiểu về chính trị, ông đã yêu cầu mẹ gửi cho cuốn niên giám The Annual Register. Trong một bức thư năm 1898, ông đã giãi bày quan điểm tôn giáo của mình với người mẹ kính yêu như sau: “Con không chấp nhận Kitô giáo hay bất cứ một hình thức tín ngưỡng nào khác”. Tuy Churchill đã được rửa tội bởi Giáo hội Anh, song theo chia sẻ thì ông đã trải qua giai đoạn chống-Kitô hiểm độc thời niên thiếu, khiến ông hoài nghi về sự tồn tại của Thiên Chúa khi lớn lên. Trong một bức thư khác gửi anh em họ, ông đã gọi tôn giáo là “thứ thuốc mê khoái khẩu”, đồng thời đề cao Kháng Cách giáo hơn Công giáo La Mã vì cho rằng đó là “một bước gần hơn đến Lý lẽ”.
Hứng thú với việc làm của nghị viện Anh, Churchill công bố bản thân là ” đảng viên Tự do chỉ trên danh nghĩa “, vì rằng ông sẽ không đời nào chấp thuận đồng ý sự ủng hộ của Đảng Tự do so với nền độc lập tự chủ của Ireland. Thay vào đó, ông đã chọn ủng hộ cánh dân chủ Tory của Đảng Bảo thủ. Trên đường về nhà, ông dừng chân tại Claverton Down, gần Bath, để đọc một bài diễn văn đại diện thay mặt Liên minh Primrose thuộc Đảng Bảo thủ cho công chúng lắng nghe ; đây cũng là diễn văn chính trị tiên phong của ông. Kết hợp hai lập trường bảo thủ và cải lương, ông ủng hộ một nền giáo dục phi-giáo phái và thế tục, tuy nhiên phản đối quyền bầu cử của phụ nữ .
Churchill tình nguyện tham gia Lực lượng Malakand của Bindon Blood trong chiến dịch càn quét phiến quân Mohmand ở Thung lũng Swat phía tây bắc Ấn Độ. Blood chấp nhận với điều kiện Churchill phải làm phóng viên chiến sự; đánh dấu khởi đầu cho nghiệp viết lách của ông. Ông quay về Bangalore vào tháng 10 năm 1897 và viết cuốn The Story of the Malakand Field Force, nhận được nhiều đánh giá tích cực. Ông cũng sáng tác một cuốn tiểu thuyết lãng mạn Ruritania có nhan đề là Savrola. Churchill cứ lúc nào rảnh là chắp bút viết, nhất là vào những khoảng thời gian ông không giữ chức vụ nào trên chính trường; Roy Jenkins gọi đó là “toàn bộ thói quen” của Churchill. Viết lách là thứ che chở ông khỏi căn bệnh trầm cảm định kỳ, hay “con chó ma” theo cách gọi của ông.
Sử dụng các mối liên lạc ở London, Churchill nhận chức trung úy của đoàn Thương kỵ 21 của Tướng Kitchener đang được điều đến Sudan, đồng thời cũng đóng góp các bài viết cho tờ The Morning Post. Sau khi tham chiến tại Trận Omdurman vào ngày 2 tháng 9 năm 1898, Đoàn Thương kỵ 21 nhận lệnh thoái lui. Tháng 10 cùng năm, Churchill về Anh và chắp bút viết cuốn The River War, một hồi ký chiến tranh được xuất bản vào tháng 11 năm 1899; đây cũng là thời điểm ông quyết định rời quân ngũ. Churchill tỏ ra khá bất bình đối với các hành động của Kitchener trong cuộc chiến, nhất là vì ông này đã đối xử không nhân đạo đối với những người lính địch bị thương, hơn nữa còn bất nhã mạo phạm lăng mộ của Muhammad Ahmad ở Omdurman.
Ngày 2 tháng 12 năm 1898, Churchill khởi hành đi Ấn Độ để triển khai xong thủ tục giải ngũ và xin thôi chức trong trung đoàn Hussar 4. Ông dành hầu hết thời hạn ở đó chơi polo, môn bóng duy nhất mà ông thương mến. Sau khi thôi chức, ông rời bến Bombay vào ngày 20 tháng 3 năm 1899, hướng về Anh với quyết tâm theo nghiệp chính trị .
Chính trị và Nam Phi : 1899 – 1901[sửa|sửa mã nguồn]
Chân dung Churchill năm 1900 quanh khoảng thời gian ông được bầu làm Nghị sĩ lần đầu tiên.
Kiếm tìm một sự nghiệp trong nghị viện, Churchill thường phát biểu tại những cuộc họp của Đảng Bảo thủ và được chọn làm một trong hai ứng viên QH của đảng này cho cuộc bầu cử phụ tháng 6 năm 1899 ở Oldham, Lancashire. Trong khi hoạt động bầu cử tại đây, Churchill tự xưng là ” một đảng viên Bảo thủ và Dân chủ Tory “. Tuy Đảng Bảo thủ trấn áp nhiều ghế Oldham, tác dụng lại là một thắng lợi suýt soát của Đảng Tự do .Nhận thấy Chiến tranh Boer thứ hai sắp nổ ra giữa Anh quốc và Cộng hòa Boer, Churchill giong buồm xuống Nam Phi với vai trò phóng viên của tờ The Morning Post do James Nicol Dunn chủ bút.[46] Vào tháng 10, ông lữ hành đến vùng tranh chấp Ladysmith, không may rơi vào vòng vây của quân Boer, bèn đổi hướng đến Colenso. Sau khi con tàu ông đi bị trật ray do pháo kích của quân Boer, ông bị bắt giữ làm tù binh chiến tranh (POW) và bị áp giải tới trại tập trung ở Pretoria. Vào tháng 12, Churchill tẩu thoát và lẩn trốn những kẻ lùng sục bằng cách đi chui trên một chuyến tàu chở hàng rồi nấp trong một khu mỏ, rốt cuộc toàn mạng chạy sang được Mozambique thuộc Bồ Đào Nha. Cuộc tẩu thoát đáng nể của ông rất đình đám trên các mặt báo.
Tháng 1 năm 1900, ông tái nhập ngũ một thời gian ngắn, đảm chức trung úy của trung đoàn Khinh kỵ Nam Phi, tham gia cùng Redvers Buller để hóa giải Cuộc vây hãm Ladysmith và chiếm cứ Pretoria. Ông thuộc trong số những chiến sĩ Anh đầu tiên tới cả hai nơi. Ông và người anh họ, Đệ cửu Công tước Marlborough, đã đích thân buộc 52 lính gác Boer phải đầu hàng. Suốt cuộc chiến, ông công khai chỉ trích các định kiến chống-Boer, kêu gọi đối xử với họ bằng “sự rộng lượng và bao dung”, và sau chiến tranh thì ông khuyên người Anh nên cảm thấy cao thượng về thắng lợi đó. Vào tháng 7, sau khi thôi chức trung úy, ông trở về Anh. Các trình thuật cho Morning Post của ông đã được xuất bản dưới nhan đề London to Ladysmith via Pretoria và bán rất chạy.
Churchill thuê một căn hộ ở Mayfair thuộc London, sống ở đó suốt 6 năm tới. Ông tiếp tục tranh cử với tư cách ửng cử viên Bảo thủ tại Oldham trong cuộc tổng tuyển cử tháng 10 năm 1900, giành được chiến thắng suýt soát và trở thành Nghị sĩ khi mới 25 tuổi. Cùng tháng đó, ông xuất bản cuốn Ian Hamilton’s March, kể về trải nghiệm của ông khi còn ở Nam Phi, sau trở thành tâm điểm của chuyến du thuyết Anh, Mỹ và Canada vào tháng 11. Vì Nghị sĩ lúc đó không được trả lương, nên chuyến công du này là cần thiết. Ở Mỹ, Churchill gặp gỡ Mark Twain, Tổng thống McKinley và Phó Tổng thống Theodore Roosevelt; ông và Roosevelt không quá tâm đầu ý hợp. Vào mùa xuân năm 1901, ông còn sang Paris, Madrid và Gibraltar để thuyết giảng.
Nghị sĩ Đảng Bảo thủ : 1901 – 1904[sửa|sửa mã nguồn]
Churchill năm 1904 khi ông “vượt sàn”, tức là bỏ đảng đang là thành viên để tham gia đảng đối lập.
Tháng 2 năm 1901, Churchill nhận ghế Hạ Nghị viện, với bài phát biểu nhậm chức được giới báo chí truyền thông đặc biệt quan trọng chú ý quan tâm. Ông giao du với nhóm Bảo thủ có tên là Hughligans, tuy nhiên sự không tương đồng với cơ quan chính phủ Bảo thủ ở rất nhiều yếu tố, nhất là về ngân sách quốc phòng. Ông muốn cơ quan chính phủ góp vốn đầu tư tập trung chuyên sâu vào thủy quân. Ý kiến này đã làm phật lòng những nghị sĩ Bảo thủ thuộc hàng ghế trước tuy nhiên nhận được sự ủng hộ lớn của những đảng viên Tự do, những người mà Churchill ngày càng thân thương, đặc biệt quan trọng là cánh chủ nghĩa Đế quốc Tự do như H. H. Asquith. Với toàn cảnh đó, Churchill sau này kể lại rằng ông ” đã dần trôi về cánh tả ” của chính trị nghị viện. Ông đã xem xét kín kẽ về ” việc phát minh sáng tạo từ từ, trải qua một quy trình tiến hóa, một cánh Dân chủ hoặc Cấp tiến với Đảng Bảo thủ “, hay nói cách khác là ông có ý đồ xây dựng một ” Đảng Trung tâm ” kết nối giữa Bảo thủ và Tự do .Tới năm 1903, rạn nứt giữa Churchill và Đảng Bảo thủ đã thể hiện rõ hơn khi nào hết, phần nhiều vì ông phản đối chủ trương bảo lãnh kinh tế tài chính của họ. Trên danh nghĩa ủng hộ thương mại tự do, ông tham gia vào việc xây dựng Liên minh Lương thực Miễn phí. [ 22 ] Churchill cảm thấy sự thù hằn của những đảng viên sẽ cản trở ông có được một chức vị Nội các Bảo thủ. Mặt khác, Đảng Tự do lúc đó lại đang trên đà thăng quan tiến chức, thế nên sự bội đảng vào năm 1904 của Churchill có lẽ rằng bắt nguồn một phần từ tham vọng chính trị của riêng ông. Ông khởi đầu hùa theo những lá phiếu Tự do chống chính phủ nước nhà. Ví dụ, ông chống quyết định hành động tăng tiêu tốn quốc phòng của cơ quan chính phủ ; ủng hộ dự luật của phái Tự do nhằm mục đích khôi phục quyền pháp lý cho những công đoàn ; và chống quyết định hành động đánh thuế quan những mẫu sản phẩm nhập khẩu vào Đế quốc Anh, tự miêu tả bản thân là ” kẻ ngưỡng mộ có chừng mực ” những quy tắc của tự do thương mại. Tháng 10 năm 1903, cơ quan chính phủ thời Arthur Balfour công bố pháp chế bảo lãnh kinh tế tài chính. Hai tháng sau, do phẫn nộ trước những lời chỉ trích của Churchill, Thương Hội Bảo thủ Oldham đã thông tin với ông rằng họ sẽ không hậu thuẫn ông trong cuộc tổng tuyển cử sau đó .Tháng 5 năm 1904, Churchill phản đối Dự luật Ngoại kiều của cơ quan chính phủ, được đề ra nhằm mục đích trấn áp dòng di cư Do Thái vào Anh. Ông phát biểu rằng, dự luật sẽ ” cổ súy định kiến thiển cận về người quốc tế, định kiến chủng tộc về người Do Thái, và định kiến lao động về sự cạnh tranh đối đầu ” và ủng hộ ” truyền thống cuội nguồn bao dung và rộng lượng cũ về sự tự do nhập cư và tị nạn chính trị mà quốc gia này lâu nay vẫn noi theo và cực kỳ hưởng lợi “. Ngày 31 tháng 5 năm 1904, ông ” vượt sàn “, bỏ Đảng Bảo thủ để ngồi bên phía Đảng Tự do trong Hạ Nghị viện .Nghị sĩ Đảng Tự do : 1904 – 1908[sửa|sửa mã nguồn]
Churchill và Hoàng đế Đức Wilhelm II trong một buổi thao diễn quân sự gần Breslau, Silesia, năm 1906.
Với tư cách đảng viên Tự do, Churchill đả kích chủ trương của cơ quan chính phủ và kiến thiết xây dựng tên tuổi là người cấp tiến dưới trướng John Morley và David Lloyd George. [ 22 ] Tháng 12 năm 1905, Balfour từ chức Thủ tướng và Vua Edward VII đã ngỏ ý mời chỉ huy Đảng Tự do Henry Campbell-Bannerman lên thay thế sửa chữa. Hy vọng bảo vệ được hầu hết ghế trong Hạ Nghị viện, Campbell-Bannerman đã phát động một cuộc tổng tuyển cử vào tháng 1 năm 1906, với tác dụng là thắng lợi của Đảng Tự do. Churchill đắc cử ghế nghị viện Tây Bắc Manchester. Cùng tháng đó, cuốn tiểu sử về cha ông được xuất bản ; Churchill lĩnh £ 8,000 tiền thù lao trả trước. Tác phẩm được tiếp đón tích cực. Trong khoảng chừng thời hạn này, tiểu sử về bản thân Churchill, viết bởi đảng viên Tự do Alexander MacCallum Scott, cũng được xuất bản .Trong chính phủ nước nhà mới, Churchill giữ chức Thứ Quốc vụ khanh của Văn phòng Thuộc địa, chức vụ nghị viện cấp thấp mà trước đó ông đã nhu yếu. Ông công tác làm việc dưới quyền Quốc vụ khanh Thuộc địa, Victor Bruce, Đệ cửu Bá tước Elgin, và chọn Edward Marsh làm thư ký riêng ; Marsh gắn bó với việc làm này trong suốt 25 năm. Nhiệm vụ tiên phong của Churchill là trợ giúp thảo bản hiến pháp cho Transvaal ; đồng thời quản đốc sự xây dựng cơ quan chính phủ Thuộc địa Sông Orange. Đối với châu Phi, ông tìm giải pháp bảo vệ sự công bình giữa dân Anh và dân Boer. Churchill cũng công bố giảm thiếu từ từ sự thiết yếu của lao động giao kèo Trung Quốc ở Nam Phi ; vì lẽ ông và cơ quan chính phủ cho rằng một lệnh cấm thẳng thừng sẽ khiến những thuộc địa không hài lòng và hoàn toàn có thể gây phương hại đến nền kinh tế tài chính. Ông tỏ ra quan ngại trước quan hệ giữa thực dân châu Âu và thổ dân châu Phi ; sau khi người Zulu kích động cuộc khởi nghĩa Bambatha ở Natal, Churchill đã chê trách sự ” chém giết một cách đáng ghê tởm dân địa phương ” của người châu Âu .nhà nước thời Asquith : 1908 – 1915[sửa|sửa mã nguồn]
quản trị Sàn thanh toán giao dịch : 1908 – 1910[sửa|sửa mã nguồn]
Churchill ngồi cạnh hôn thê Clementine Hozier, ít lâu trước khi cưới năm 1908.
Asquith tiếp sau Thủ tướng Campbell-Bannerman vào ngày 8 tháng 4 năm 1908 và, bốn ngày sau, Churchill được chỉ định làm quản trị Sàn thanh toán giao dịch tiếp nối Lloyd George, người đã sang làm Bộ trưởng Quốc khố. Mới 33 tuổi, Churchill là thành viên Nội các trẻ nhất vào năm 1866. Về mặt pháp lý, những bộ trưởng liên nghành Nội các mới được chỉ định bắt buộc phải tái ứng cử trong một cuộc bầu cử phụ ; vào ngày 24 tháng 4, Churchill thất bại trước một ứng viên Bảo thủ ở cuộc bầu cử phụ khu vực Tây Bắc Manchester. Ngày 9 tháng 5, Đảng Tự do ủy thác cho ông ghế bảo đảm an toàn của Dundee, nơi mà ông thắng lợi suôn sẻ .Về đời tư, Churchill hỏi cưới bà Clementine Hozier và chính thức kết hôn vào ngày 12 tháng 9 năm 1908 tại St Margaret’s, Westminster, rồi dành tuần trăng mật ở Baveno, Venice, và Lâu đài Veverí ở Moravia. Họ chung sống ở số 33 Quảng trường Eccleston, London, và vào tháng 7 năm 1909 hạ sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Diana. Churchill và Clementine gắn bó với nhau suốt 56 năm cho tới khi ông qua đời. Sự thành công xuất sắc trong hôn nhân gia đình của hai người họ, bắt nguồn từ tình yêu chung thủy của Clementine so với Churchill, đã củng cố và bảo vệ hậu phương vững chãi cho sự nghiệp chính trị của ông. [ 22 ]Một trong những trách nhiệm tiên phong của Churchill trong nội các là hòa giải xích míc giữa những người thợ thuyền và chủ lao động trên Sông Tyne. Rút kinh nghiệm tay nghề từ vụ này, ông đã xây dựng Tòa án Trọng tài Thường trực để xử lý những xích míc công nghiệp trong tương lai, kiến thiết xây dựng được uy tín như một người điều đình tài ba. Trong Nội các, ông cộng tác với Lloyd George để bênh vực cải cách xã hội. Ông tuyên truyền cái gọi là ” mạng lưới can thiệp và điều tiết Quốc gia “, phỏng theo quy mô của Đức lúc bấy giờ .Tiếp nối công lao của Lloyd George, [ 22 ] Churchill trình làng Đạo luật Tám tiếng Hầm mỏ, theo đó cấm thợ mỏ thao tác hơn tám tiếng một ngày. Ông cũng ra mắt Đạo luật Thương mại, theo đó xây dựng nhiều phòng Thương mại có thẩm quyền kiện tụng những chủ lao động bóc lột công nhân. Được trải qua bởi hầu hết QH, luật đạo này đã bảo vệ mức lương tối thiểu và quyền được nghỉ ăn trưa cho công nhân. Tháng 5 năm 1909, ông yêu cầu Đạo luật Trao đổi Lao động, qua đó xây dựng hơn 200 sở lao động có tính năng tương hỗ tìm việc làm cho người lao động. Ông cũng có sáng tạo độc đáo về một giải pháp bảo hiểm cho người thất nghiệp với khoản hỗ trợ vốn một phần từ nhà nước .Để đảm bảo nguồn vốn cho cải cách, Lloyd George và Churchill công kích chính sách mở rộng hải quân của Reginald McKenna, từ chối viễn cảnh về một cuộc chiến không thể tránh khỏi với Đức. Trên cương vị Bộ trưởng Tài chính, Lloyd George đã trình bày bài luận “Ngân sách của Nhân dân” vào ngày 29 tháng 4 năm 1909, khẳng định rằng xóa bỏ đói nghèo chính là công việc của ngân sách chiến tranh. Với sự hậu thuẫn vững chắc của Churchill,[22] Lloyd George đề xuất áp thuế thật mạnh tầng lớp giàu có nhằm tài trợ cho chương trình phúc lợi xã hội của Đảng Tự do. Ý kiến này bị phủ quyết bởi các đồng sự bên Đảng Bảo thủ, lúc đó đang thống trị Thượng Nghị viện. Nhận thấy chính sách cải cách bị đe dọa, Churchill trở thành chủ tịch của Liên minh Ngân sách (Budget League),[22] và cảnh cáo rằng sự cản trở này của tầng lớp thượng lưu sẽ kích động nhân dân lao động Anh nổi dậy và dẫn đến chiến tranh giai cấp. Chính phủ kêu gọi tổng tuyển cử vào tháng 1 năm 1910, và kết quả là một chiến thắng suýt soát của Đảng Tự do; Churchill vẫn giữ ghế của Dundee. Sau cuộc bầu cử, ông đề xuất giải tán Thượng Nghị viên trong một bức thư báo cho nội các, gợi ý tiếp nối nó bằng một hệ thống nhất viện mới hẳn hoặc tái lập một nghị viện thứ cấp nhỏ hơn nhằm tước đi lợi thế bấy lâu của Đảng Bảo thủ trong Thượng viện Anh. Vào tháng 4, các Thượng Nghị sĩ mủi lòng cho phép thông qua Ngân sách của Nhân dân. Churchill tiếp tục vận động chống lại Thượng viện và hỗ trợ việc thông qua Đạo luật Nghị viện 1911, theo đó giảm thiểu và hạn chế quyền lực của Thượng viện.[22]
Bộ trưởng Nội vụ : 1910 – 1911[sửa|sửa mã nguồn]
Tháng 2 năm 1910, Churchill trở thành Bộ trưởng Nội vụ, nắm quyền trấn áp lực lượng công an và mạng lưới hệ thống nhà tù. Ông ngay lập tức thực thi chương trình cải cách nhà tù ; đưa vào quy định phân biệt tù nhân phạm tội và tù nhân chính trị, đồng thời thả lỏng những điều luật xoay quanh tù nhân chính trị. Biện pháp giáo dục bằng thư viện trong tù cũng được vận dụng, và những nhà tù bắt buộc phải tổ chức triển khai tạp kỹ vui chơi tối thiểu bốn dịp trong năm cho tù nhân. Luật biệt giam cũng được thả lỏng không ít, và Churchill yêu cầu bãi bỏ luật giam giữ những người không có năng lực trả phí phạt. Ông cũng bãi bỏ luật giam giữ những phạm nhân trong độ tuổi từ 16 đến 21, ngoại trừ những trường hợp nghiêm trọng. Trong nhiệm kỳ của mình, Churchill đã ân giảm 21 trong số 43 án tử hình đã được trải qua .Một trong những yếu tố nhức nhối ở Anh lúc bấy giờ là quyền bầu cử của phụ nữ. Churchill ủng hộ điều này, tuy nhiên với điều kiện kèm theo là phần đông cử tri phái mạnh cũng phải thuận theo. Giải pháp của ông là tổ chức triển khai một cuộc trưng cầu dân ý, tuy nhiên lại không được sự ủng hộ của Asquith và quyền bầu cử của phụ nữ vấn liên tục là chủ đề gây tranh cãi cho tới năm 1918. Nhiều nhà đấu tranh nữ quyền coi Churchill là quân địch của trào lưu giành quyền bầu cử của họ, nên họ thường nhắm vào những cuộc họp của ông để biểu tình. Tháng 11 năm 1910, nhà đấu tranh Hugh Franklin đã tiến công Churchill bằng một cái roi ; Franklin bị bắt giữ và giam giữ suốt sáu tuần .
Mùa hè năm 1910, bạo loạn Tonypandy nổ ra ở Thung lũng Rhondda vì thợ mỏ nơi đây bất bình với điều kiện làm việc tệ bạc. Cảnh sát trưởng của Glamorgan yêu cầu binh lính chi viện để giúp đỡ lực lượng địa phương dập tắt bạo loạn. Churchill, khi hay tin quân lính đã được cử đi, cho phép họ tiến tới Swindon và Cardiff, nhưng ngăn cản không cho triển khai tác chiến vì lo lắng đổ máu vô ích. Thay vào đó, ông cử 270 chiến sĩ cảnh sát London, không trang bị hỏa khí, tới trợ giúp các đồng sự Wales. Với sự kéo dài bạo loạn, ông đành cho phép người biểu tình chất vấn trọng tài công nghiệp trưởng của chính phủ, và những người biểu tình liền chấp nhận. Về phần mình, Churchill nhận xét rằng cả chủ lẫn công nhân của khu mỏ này đều “rất phi lý”. The Times và các mặt báo khác cáo buộc ông còn quá mềm mỏng đối với những người biểu tình; trái lại thì các đảng viên của Đảng Lao động, có liên hệ với các công đoàn, lại phê phán ông là quá mạnh tay. Cũng từ đây mà Churchill bắt đầu phát sinh sự ngờ vực lâu dài đối với phong trào lao động nói chung.[22]
Asquith lôi kéo tổ chức triển khai tổng tuyến cử vào tháng 12 năm 1910 ; những đảng viên Tự do đều tái đắc cử và Churchill vẫn giữ ghế bảo đảm an toàn của Dundee. Tháng 1 năm 1911, Churchill đã tận mắt tận mắt chứng kiến cuộc vây bắt Phố Sidney, theo đó ba tên trộm người Latvia đã sát hại nhiều sĩ quan công an trước khi lẩn trốn trong một ngôi nhà ở khu East End của London ; lực lượng công an đã mau chóng phong tỏa khu vực. Churchill đứng cùng công an tuy nhiên không trực tiếp quản lý chiến dịch này. Sau khi ngôi nhà bốc cháy ngùn ngụt, ông đã can ngăn những chiến sỹ cứu hỏa xông vào vì e sợ những tên trộm có vũ trang. Do không được cứu hộ cứu nạn, hai tên trộm đã chết bên trong. Tuy bị chỉ trích vì quyết định hành động trên, ông phát biểu rằng ” thà cho ngôi nhà cháy rụi, còn hơn là đánh đổi những mạng người Anh quý giá để cứu mấy thằng nhãi ác man ấy ” .
Đệ nhất Đại thần Hải quân[sửa|sửa mã nguồn]
Nhà Đô đốc, nơi ở và làm việc của Churchill khi giữ chức Đệ nhất Đô đốc Đại thần từ năm 1911.
Tháng 10 năm 1911, Asquith chỉ định Churchill chức Đệ nhất Đại thần Hải quân, và ông chính thức cư trú tại Nhà Đô đốc. Ông lập ra ban tham mưu cuộc chiến tranh [ 22 ] và, trong hai năm rưỡi tới, tập trung chuyên sâu nâng cao cẩn trọng cho thủy quân, đi thăm những quân trạm và quân cảng, tìm cách cải tổ nhuệ khí binh sĩ, đồng thời theo dõi sát sao sự tăng trưởng của thủy quân Đức. Sau khi chính phủ nước nhà Đức trải qua Luật Hải quân 1912 nhằm mục đích tăng nhanh sản xuất con thuyền, Churchill đã thề rằng : cứ một con thuyền mà người Đức đóng, Anh quốc sẽ đóng hai chiếc tương tự .Churchill thúc bách tăng lương và xây dựng cơ sở giải trí cho sĩ quan hải quân, đẩy mạnh ngành đóng tàu ngầm, và quan tâm hơn đến lực lượng không quân thuộc Hải quân Hoàng gia, theo đó khuyến khích thử nghiệm để tìm ra cách vận dụng máy bay vào trong chiến đấu. Ông đề ra thuật ngữ “seaplane” (thủy phi cơ) và hạ lệnh lắp ghép 100 mẫu máy bay mới này. Một số đảng viên Tự do chống đối sự đầu tư của Churchill cho hải quân; vào tháng 12 năm 1913, ông dọa sẽ từ chức nếu yêu sách vào năm 1914–15, về việc đóng thêm bốn chiến hạm mới, không được thông qua. Tháng 6 năm 1914, ông thuyết phục Hạ viện bắt chính phủ phải mua 51 phần trăm trữ lượng dầu mỏ dôi thừa được sản xuất bởi Công ty Dầu mỏ Anh-Ba Tư, nhằm đảm bảo nguồn cung liên tiếp cho Hải quân Hoàng gia.
Vấn đề trọng điểm lúc bấy giờ ở Anh là sự tự chủ của Ireland và, vào năm 1912, cơ quan chính phủ Asquith đã trình làng Đạo luật Tự trị Quê nhà. Churchill ủng hộ và thôi thúc Đảng Liên hiệp Ulster đồng ý chấp thuận nó, vì lẽ ông không muốn chia cắt Ireland. Quan ngại rằng Ireland sẽ tách đôi, Churchill khẳng định chắc chắn : ” Dù quyền của Ulster có là gì đi chăng nữa, nó không thể nào ngáng đường sự thống nhất phần còn lại của Ireland. Một nửa cái tỉnh không hề áp đặt phiếu phủ quyết vô hạn lên toàn vương quốc. Một nửa cái tính không hề cản trở mãi mãi sự hòa giải giữa hai nền dân chủ Anh và Ireland “. Trước Hạ viện vào ngày 16 tháng 2 năm 1922, Churchill đã phát biểu : ” Điều mà người Ireland trên toàn quốc tế mong ước nhất lúc này không phải là thù oán với quốc gia ta, mà là sự thống nhất quốc gia của họ “. Sau đó, tuân theo quyết định hành động của Nội các, ông tăng cường hiện hữu của thủy quân ở Ireland để đề phòng một cuộc nổi dậy của phái Liên hiệp. Muốn đi tới thỏa hiệp, Churchill gợi ý rằng Ireland nên liên tục liên bang với Vương quốc Anh, tuy nhiên điều này đã làm phật lòng Đảng Tự do và phái dân tộc bản địa chủ nghĩa Ireland .Trên cương vị Đại thần Đô đốc, Churchill được phó thác việc giám sát nỗ lực cuộc chiến tranh của thủy quân Anh khi Thế chiến thứ nhất nổ ra vào tháng 8 năm 1914. Cùng tháng đó, thủy quân chuyên chở 120.000 lính Anh sang Pháp và phong tỏa những cảng Biến Bắc của Đức. Churchill cử tàu ngầm tới Biển Baltic để tương hỗ Hải quân Nga và điều động Lữ đoàn Thủy quân đánh bộ tới Ostend, buộc Đức phải tái sắp xếp lực lượng. Vào tháng 9, Churchill nắm toàn quyền so với mạng lưới hệ thống quốc phòng trên không của Anh. Vào ngày 7 tháng 10, Clementine sinh đứa con thứ ba, đặt tên là Sarah. Vào tháng 10, Churchill thẩm tra tuyến phòng thủ Antwerp của Bỉ trước rủi ro tiềm ẩn bị Đức vây hãm, cam kết ràng buộc sẽ chi viện kịp thời cho thành phố. Tuy nhiên, Antwerp thất thủ không lâu sau và Churchill đã bị chỉ trích khá nặng nề trên truyền thống cuội nguồn vì vụ này. Song ông cho rằng hành vi của mình đã giúp lê dài cuộc kháng cự và được cho phép Đồng minh chiếm được Calais và Dunkirk. Vào tháng 11, Asquith triệu tập Hội đồng Chiến tranh, gồm có bản thân ông, Lloyd George, Edward Grey, Kitchener, và Churchill. Churchill sử dụng nguồn ngân sách Hải quân để hối thúc dự án Bất Động Sản tăng trưởng xe tăng .Churchill chuyển hướng chú ý quan tâm sang mặt trận Trung Đông. Vì muốn giảm bớt áp lực đè nén cho quân Nga ở Kavkaz, ông vạch ra kế hoạch đánh Dardanellia để lôi cuốn lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ với kỳ vọng rằng, nếu thành công xuất sắc, thì người Anh hoàn toàn có thể chiếm luôn Constantinopolis. Đề xuất này được trải qua, và vào tháng 3 năm 1915, lực lượng biệt kích Anh-Pháp nã pháo vào tuyến phòng thủ của Thổ Nhĩ Kỳ ở Dardanellia. Tháng 4 cùng năm, Lực lượng Viễn chinh Địa Trung Hải, gồm có Quân đoàn Lục quân Úc và New Zealand ( ANZAC ), đổ bộ đánh chiếm Gallipoli. Cả hai chiến dịch thất bại ê chề và Churchill đã bị nhiều MP, nhất là từ Đảng Bảo thủ, đổ nghĩa vụ và trách nhiệm lên đầu .Vào tháng 5, Asquith chấp thuận đồng ý dưới áp lực đè nén từ nghị viện để lập ra chính phủ nước nhà liên minh toàn đảng, tuy nhiên Đảng Bảo thủ chỉ tham gia nếu Churchill bị đào thải khỏi Văn phòng Hải quân. Churchill nỗ lực biện hộ với Asquith và chỉ huy Đảng Bảo thủ Bonar Law, tuy nhiên rốt cuộc vẫn bị giáng xuống chức Tướng quốc Lãnh địa Công tước Lancaster .
Trở lại quân ngũ : 1915 – 1916[sửa|sửa mã nguồn]
Churchill chỉ huy Tiểu đoàn 6, Trung đoàn Fusilier Scotland Hoàng gia, 1916. Cấp phó của Churchill, Archibald Sinclair, ngồi bên trái ông.
Ngày 25 tháng 11 năm 1915, Churchill xin từ chức nội các chính phủ, vẫn giữ ghế nghị viện. Asquith khước từ thỉnh cầu cho vị trí Toàn quyền Đông Phi thuộc Anh của Churchill.
Churchill quyết định hành động nhập ngũ và được biên chế cho tiểu đoàn 2 thuộc Vệ binh Ném lựu đạn đóng ở Mặt trận phía Tây. Tháng 1 năm 1916, ông giữ trong thời điểm tạm thời quân hàm trung tá và được chuyển giao Tiểu đoàn 6 thuộc Trung đoàn Fusilier Scotland Hoàng gia. [ 164 ] Sau một thời hạn đào tạo và giảng dạy, tiểu đoàn được điều lên Mặt trận Bỉ gần Ploegsteert. Trong hơn ba tháng tiếp theo, họ hứng chịu pháo kích triền miên nhưng không phải cạnh tranh đối đầu với cuộc tiến công nào từ quân Đức. Trong chuyến thăm của Đệ cửu Bá tước Marlborough, Churchill đã suýt mất mạng vì một mảnh đạn pháo rơi giữa hai người họ. [ 167 ] Tháng 5 cùng năm, tiểu đoàn 6 Fusilier Scotland Hoàng gia được hợp nhất với sư đoàn 15. Churchill không nhu yếu vị trí chỉ huy mới mà xin phép rời khỏi chiến tuyến. Hàm trung tá trong thời điểm tạm thời của ông mãn hạn vào ngày 16 tháng 5 năm 1916. [ 169 ]Quay về Hạ viện, Churchill lên tiếng về yếu tố cuộc chiến tranh, lôi kéo lan rộng ra lệnh gọi nhập ngũ cho cả người Ireland, công nhận thoáng đãng hơn lòng dũng mãnh của binh lính, và phân phát mũ sắt cho binh lính trên tiền tuyến. Tháng 11 năm 1916, ông thảo bài luận ” Ứng dụng tốt hơn sức mạnh cơ giới để đạt được công kích trên bộ “, tuy nhiên bị phớt lờ. Ông nản chí do phải ngồi hàng ghế sau, và bị đổ lỗi liên tục vì vụ Gallipoli, phần đông từ những đài báo Bảo thủ. Churchill phân trần trước Ủy ban Dardanellia, và họ đã xuất bản báo cáo giải trình thanh minh cho ông .
nhà nước thời Lloyd George : 1916 – 1922[sửa|sửa mã nguồn]
Bộ trưởng Đạn dược : 1917 – 1919[sửa|sửa mã nguồn]
Tháng 10 năm 1916, Asquith từ chức Thủ tướng và được sửa chữa thay thế bởi Lloyd George. Tháng 5 năm 1917, vị thủ tướng mới cử Churchill đi thanh tra nỗ lực cuộc chiến tranh của người Pháp. Tháng 7 cùng năm, Churchill được chỉ định làm Bộ trưởng Đạn dược. Ông nhanh gọn đàm phán chấm hết cuộc đình công ở nhà máy sản xuất bên Sông Clyde, đồng thời tăng cường sản xuất đạn dược. Trong thỉnh thư gửi Nội các vào tháng 10 năm 1917, ông đã vạch ra kế hoạch tiến công cho năm sau, điều rốt cuộc đã mang lại thắng lợi cho khối Đồng minh. Ông dập tắt một cuộc đình công nữa vào tháng 6 năm 1918, bằng cách dọa bắt công nhân phải nhập ngũ. Ở Hạ viện, Churchill đầu phiếu cho Dự luật Đại diện của Nhân dân 1918, được cho phép một bộ phận phụ nữ Anh có quyền bầu cử. Tháng 11 năm 1918, bốn ngày sau khi Hòa ước được ký kết, đứa con thứ tư của Churchil, Marigold, chào đời .
Quốc vụ khanh Chiến tranh và Không quân : 1919 – 1921[sửa|sửa mã nguồn]
Churchill gặp mặt các công nhân nữ tại xưởng đạn dược Georgetown gần Glasgow vào tháng 10 năm 1918.
Với sự khép lại của đại chiến, Lloyd George lôi kéo tổng tuyển cử mở màn từ Thứ Bảy, ngày 14 tháng 12 năm 1918. Trong chiến dịch tranh cử, Churchill hô hào quốc hữu hóa đường tàu, trấn áp chặt độc quyền, cải cách thuế, và xây dựng Hội Quốc Liên. Ông trở lại ghế MP của Dundee và, tuy Đảng Bảo thủ chiếm thế thượng phong, Lloyd George vẫn giữ chức Thủ tướng. Tháng 1 năm 1919, Lloyd George thuyên chuyển Churchill sang công tác làm việc ở Văn phòng Chiến tranh, với vai trò vừa là Quốc vụ khanh Chiến tranh, vừa là Quốc vụ khanh Không quân .Churchill chịu trách nhiệm giải ngũ Lục quân Anh, song ông đã thuyết phục Lloyd George giữ lại một triệu lính cho Quân đội Anh ở sông Rhine. Churchill là một trong số ít chính khách phản đối sự trừng trị mạnh tay đối với nước Đức bại trận, và ông đã góp ý rằng không nên giải giáp hoàn toàn Lục quân Đức mà phải tận dụng nhằm đề phòng mối đe dọa mới từ Nga Xô viết. Ông là đối thủ thắng thắn chống lại chính quyền cộng sản do Vladimir Lenin mới lập ra ở Nga. Ông ban đầu ủng hộ việc triển khai binh lính để giúp đỡ lực lượng Bạch vệ chống cộng trong Nội chiến Nga, song dần nhận ra rằng nguyện vọng của nhân dân Anh là đưa họ về nhà. Sau khi Xô viết giành thắng lợi, Churchill đề xuất thành lập một cordon sanitaire nhằm kìm hãm cuộc cách mạng Bolshevik, không cho nó lan rộng.
Trong Chiến tranh giành độc lập Ireland, ông ưng ý cho tổ chức triển khai bán quân sự chiến lược Black and Tans chiến đấu với quân cách mạng Ireland. Khi hay tin lực lượng Anh ở Iraq đụng độ với phiến quân Kurd, Churchill đã cử ngay hai sư đoàn đến chi viện, yêu cầu trang bị cho họ khí mù tạt để ” trừng trị bọn thổ dân ngang bướng mà không làm chúng bị trọng thương “, tuy nhiên quan điểm này không được tiếp thu. Nhìn thoáng ra, ông cho rằng sự chiếm đóng Iraq đang làm khánh kiệt nước nhà và đề xuất kiến nghị, tuy bất thành, rằng chính phủ nước nhà nên trao trả miền trung và nam Iraq về tay Thổ Nhĩ Kỳ .
Quốc vụ khanh Thuộc địa : 1921 – 1922[sửa|sửa mã nguồn]
Quốc vụ khanh Thuộc địa Churchill thăm Lãnh thổ ủy trị Palestine, Tel Aviv, 1921.
Churchill trở thành Quốc vụ khanh Thuộc địa vào tháng 2 năm 1921. Vào tháng sau, bức tranh tiên phong do ông vẽ được tọa lạc khuyết danh ở một triển lãm tại Paris. Vào tháng 5, mẹ ông qua đời. Vào tháng 8, con gái Marigold hai tuổi của ông cũng qua đời do nhiễm trùng huyết. Cái chết của Marigold đã khiến vợ chồng Churchill suy sụp đáng kể và ông bị ám ảnh bởi thảm kịch này suốt phần đời còn lại. [ 195 ]Churchill tham gia đàm phán với những thủ lĩnh Đảng Sinn Féin và góp phần thảo Hiệp ước Anh-Ireland. Ngoài ra, ông cũng chịu nghĩa vụ và trách nhiệm giảm thiểu ngân sách cho sự chiếm đóng Trung Đông, đồng thời hậu thuẫn cho hai vương triều Faisal I của Iraq và Abdullah I của Jordan. Trong thời hạn này, Churchill tới thăm Lãnh thổ ủy trị Palestine và, với tư tưởng ủng họ chủ nghĩa phục quốc Do Thái, đã khước từ lời thỉnh cầu cấm người Do Thái nhập cư Palestine của người Ả-Rập Palestine. Tuy vậy, ông đồng ý một số ít hạn chế theo sau cuộc bạo loạn Jaffa 1921 .Tháng 9 năm 1922, khủng hoảng cục bộ Chanak khơi mào do Thổ Nhĩ Kỳ rình rập đe dọa đánh chiếm vùng trung lập Dardanelles, lúc bấy giờ đang nằm dưới sự trấn áp của lực lượng trị an Anh đóng ở Chanak ( hiện là Çanakkale ). Churchill và Lloyd George ủng hộ kháng cự quân sự chiến lược nhưng phần đông Đảng Bảo thủ phản đối. Sự việc này đã kéo theo một cuộc tranh cãi nảy lửa, khiến Đảng Bảo thủ phải thoái lui khỏi cơ quan chính phủ, rồi dẫn đến cuộc tổng tuyển cử tháng 11 năm 1922. [ 22 ]Cũng vào tháng 9, đứa con út của Churchill, tên là Mary, chào đời. Cùng tháng đó, ông mua ngôi nhà ở Chartwell, Kent. Tháng 10 năm 1922, Churchill phẫu thuật cắt ruột thừa, và trong khi ông nằm liệt viện, liên minh của Lloyd George đã bị giải tán. Trong cuộc tổng tuyển cử 1922, Churchill để mất ghế Dundee cho Edwin Scrymgeour. Ông tả hóm hỉnh mình lúc đó ” không chức, không ghế, không đảng, và không ruột thừa “. Dù vậy, ông vẫn được tôn vinh là một trong 50 Cộng sự Danh dự trên list Danh dự Giải thể Nghị viện của Lloyd George vào năm 1922. [ 203 ]Nghề nghiệp giữa hai đại chiến[sửa|sửa mã nguồn]
Trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1923, ông lại sát cánh cùng phe Tự do, và thua cử ở Leicester, nhưng vài tháng sau đó, ông lại quay sang Đảng Bảo thủ, mặc dầu khởi đầu sử dụng giải pháp ” Chống người xã hội ” và là ” người theo chủ nghĩa hợp hiến ” .Chưa tới một năm sau, trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1924, ông được bầu làm đại biểu cho vùng Epping với tư cách ” người theo chủ nghĩa hợp hiến ” và với sự tương hỗ của Đảng bảo thủ ( một bức tượng để vinh danh ông ở Woodford Green đã được dựng lên khi Woodford Green còn là một khu bên trong vùng bầu cử Epping ). Năm sau đó, ông chính thức gia nhập Đảng bảo thủ, và gượng chống chế rằng ” Bất kỳ ai đều hoàn toàn có thể rời bỏ đảng, nhưng tất yếu là cũng cần khá nhiều khôn khéo để gia nhập trở lại. “Ông được chỉ định làm Bộ trưởng Tài chính năm 1924 dưới thời Stanley Baldwin và có trách nhiệm đảm nhiệm việc hồi sinh mạng lưới hệ thống bản vị vàng đầy tai hại, khiến cho lạm phát kinh tế, thất nghiệp, và những vụ đình công của công nhân mỏ nổi lên dẫn tới cuộc Tổng đình công năm 1926. Quyết định này đã khiến nhà kinh tế tài chính John Maynard Keynes phải viết cuốn sách ” Những hậu quả kinh tế tài chính của Churchill “, đưa ra lý lẽ đúng mực rằng việc quay lại vận dụng bản vị vàng sẽ dẫn tới giảm phát kinh tế tài chính quốc tế. Sau này Churchill coi đây là một trong những quyết định hành động tồi nhất trong cuộc sống chính trị của ông. Để công minh, cũng phải nói rằng ông không phải là một nhà kinh tế tài chính và rằng ông đã hành vi theo lời khuyên của Thống đốc Ngân hàng Anh Quốc, Montagu Norman ( Keynes đã nói về ông này, ” Luôn rất điệu đàng, và luôn rất sai lầm đáng tiếc. ” )
Trong cuộc Tổng đình công năm 1926, Churchill bị cho rằng đã đề xuất sử dụng súng máy để đối phó với những thợ mỏ đình công. Churchill làm chủ bút tờ báo của chính phủ, tờ British Gazette (Công báo Anh), và trong cuộc tranh luận ông đã đưa ra lý lẽ rằng “hoặc đất nước sẽ đập tan được cuộc Tổng đình công, hoặc cuộc Tổng đình công sẽ đập tan đất nước”. Hơn nữa, ông tuyên bố trong cuộc tranh luận rằng Chủ nghĩa phát xít của Benito Mussolini đã “giúp đỡ cả thế giới”, cho rằng nó có “một con đường để chiến đấu với những lực lượng có âm mưu lật đổ” – có nghĩa là, ông coi chế độ phải là một lực lượng bảo vệ chống lại mối đe doạ xâm nhập của cách mạng cộng sản. Ở một quan điểm, Churchill còn đi xa tới mức gọi Mussolini là “Thiên tài của Roma nhà lập pháp lớn nhất của loài người”[204].
nhà nước bảo thủ bị vượt mặt tại cuộc Tổng tuyển cử năm 1929. Trong hai năm tiếp theo, Churchill tỏ vẻ lạnh nhạt với ban chỉ huy đảng Bảo thủ về những yếu tố thuế quan bảo lãnh và trào lưu đòi độc lập Ấn Độ, mà ông phản đối. Ông hạ nhục người cha trào lưu đòi độc lập Ấn Độ, Mahatma Gandhi, là ” một thầy tu khổ hạnh bán khỏa thân ” người ” cần phải bị đập cho một trận, trói chân tay vào cổng thành Delhi và sau đó mang ra cho một con voi lớn với vị phó vương cưỡi trên sống lưng giẫm đạp ” .Khi Ramsay MacDonald xây dựng nhà nước vương quốc năm 1931, Churchill không được mời tham gia. Lúc ấy ông đang ở quy trình tiến độ tồi tệ nhất về nghề nghiệp, tiến trình được gọi là ” những năm tháng thất lạc “. Ông dành thời hạn mấy năm tiếp sau đó để tập trung chuyên sâu vào viết lách, gồm cuốn ” Marlborough : Cuộc đời và thời đại ” – một cuốn tiểu sử về tổ tiên ông là John Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất – và ” Một lịch sử dân tộc của những người nói tiếng Anh ” ( cuốn này không được xuất bản mãi tới sau Chiến tranh quốc tế thứ hai ). Ông trở nên nổi tiếng nhất về những câu nói chống lại việc trao lại độc lập cho Ấn Độ ( xem Ủy ban Simon và Đạo luật nhà nước Ấn Độ 1935 ) .Dù vậy, sự quan tâm của ông ngay lập tức chuyển sang sự nổi lên nhanh gọn của Adolf Hitler và những mối nguy từ việc tái vũ trang của nước Đức. Trong một thời hạn, ông là người duy nhất lôi kéo nước Anh phải tự tăng cường sức mạnh nhằm mục đích chống lại thực trạng sẵn sàng chuẩn bị cuộc chiến tranh của Đức [ 205 ]. Churchill là một người chỉ trích mãnh liệt chủ trương nhân nhượng của Neville Chamberlain so với Hitler, đứng vị trí số 1 phe bảo thủ phản đối Hiệp ước München mà Chamberlain đã công bố là ” tự do trong thời đại của tất cả chúng ta ” [ 206 ]. Ông cũng công bố là người ủng hộ vua Edward VIII trong thời hạn xảy ra cuộc khủng hoảng cục bộ thoái vị, dẫn tới một số ít suy đoán rằng ông hoàn toàn có thể được chỉ định làm Thủ tướng nếu nhà vua phủ nhận nghe lời khuyên của Baldwin và do đó buộc chính phủ nước nhà phải từ chức. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra và Churchill thấy mình bị cô lập về chính trị và bị bôi bác tới bầm dập trong khoảng chừng thời hạn sau đó .
Vai trò Thủ tướng trong đại chiến[sửa|sửa mã nguồn]
Sau khi Chiến tranh quốc tế thứ hai bùng nổ, Churchill được chỉ định làm Bộ trưởng Hải quân là chức vụ ông đã đảm nhiệm thời Chiến tranh quốc tế thứ nhất, và trong Hạm đội Hải quân Hoàng gia đã có nhiều tiếng kêu vui mừng : ” Winston đã trở lại ! “Trong cương vị này ông đã chứng tỏ là một trong những bộ trưởng liên nghành năng lực nhất ở thời gọi là ” Chiến tranh giả “, khi mà hành vi đáng quan tâm nhất chỉ diễn ra trên biển. Churchill yêu cầu việc tiến công chiếm giữ trước cảng quặng sắt Narvik của nước Na Uy trung lập và mỏ sắt Kiruna của Thụy Điển ngay từ đầu đại chiến. Tuy nhiên, Chamberlain và hàng loạt nhà nước Chiến tranh không đồng ý chấp thuận, và chiến dịch này bị trì hoãn tới tận khi Đức tiến công Na Uy, đã thành công xuất sắc tuy có nỗ lực của Anh .
Thủ tướng Churchill tại bờ đông sông Rhine thuộc lãnh thổ Đức tháng 3 nâm 1945.
Tháng 5 năm 1940, ngay lúc Đức đánh Pháp bằng một cuộc tiến công chớp nhoáng xuyên qua Hà Lan, rõ ràng là Chamberlain đã không còn được dân chúng tin yêu ở cương vị quản lý cuộc chiến tranh. Chamberlain từ chức, Churchill được chỉ định làm Thủ tướng và lập nên một chính phủ nước nhà mọi đảng phái. Có lẽ trước khi Churchill được chỉ định làm Thủ tướng, nhà vua đã xem xét tới việc chỉ định Lord Edward Frederick Lindley Wood, Bá tước Halifax thứ nhất. Lý do của việc này được cho là vì nền quân chủ sợ rằng nó sẽ không hề sống sót sau đại chiến, và rằng Bá tước Halifax là người thuộc phe nhân nhượng trước đây hoàn toàn có thể đàm phán một thỏa hiệp với Hitler cho phép nước Anh đứng ngoài cuộc chiến và giữ gìn nền quân chủ [ 207 ]. Mặc dù những sự kiện thường được dẫn chứng để biện minh nguyên do Halifax không được chỉ định cho rằng vì ông sợ ông không hề điều hành chính phủ một cách hiệu suất cao chính bới ông là thành viên của Thượng nghị viện chứ không phải Hạ nghị viện, cũng có lời bóng gió rằng Churchill đã sử dụng giải pháp hăm dọa để đạt được mục tiêu. Mặc dù theo truyền thống cuội nguồn Thủ tướng không tư vấn cho nhà vua về người kế vị, Chamberlain đã muốn một người có năng lực lôi cuốn được sự ủng hộ của ba đảng lớn trong Hạ nghị viện. Một cuộc gặp gỡ với hai vị chỉ huy những đảng kia đã dẫn tới việc trình làng Churchill. Vì thế, George VI có lẽ rằng đã bắt buộc phải đồng ý Churchill làm Thủ tướng. Churchill, không theo truyền thống cuội nguồn, không gửi cho Chamberlain một bức thư bày tỏ sự lấy làm tiếc về sự từ chức của Chamberlain [ 208 ] .Công lao lớn nhất của Churchill là ông đã khước từ đầu hàng khi năng lực bị người Đức vượt mặt là rất lớn và luôn phản đối bất kể một sự đàm phán nào với Đức, giữ vững chủ trương buộc nước Đức Phát xít đầu hàng vô điều kiện kèm theo, đã được thỏa thuận hợp tác trong cuộc gặp Tam cường tại Hội nghị Tehran .Để vấn đáp những lời chỉ trích trước đó rằng đã không có một vị bộ trưởng liên nghành chuyên trách cho đại chiến, Churchill đã xây dựng và nắm thêm vị trí Bộ trưởng Quốc phòng. Ông ngay lập tức đưa bạn và là người thân tín của ông, chính khách, nhà công nghiệp và chủ báo, Nam tước Beaverbrook, làm Bộ trưởng Sản xuất máy bay. Nhờ sự nhạy bén đáng kinh ngạc của Beaverbrook, nước Anh nhanh gọn tăng vận tốc sản xuất máy bay tới mức làm đổi khác cục diện mặt trận .Các bài phát biểu của Churchill là cảm hứng to lớn cho tinh thần chiến đấu của Anh Quốc. Bài phát biểu đầu tiên của ông ở cương vị thủ tướng rất nổi tiếng với tên gọi “Tôi không có gì để cống hiến ngoài máu, sự lao động, nước mắt và mồ hôi“. Ông đã hành động đúng theo đó và tiếp tục có hai bài phát biểu nổi tiếng khác ngay trước Trận chiến nước Anh. Một bài với câu nói bất hủ, “Chúng ta sẽ bảo vệ Tổ quốc của chúng ta, dù với bất kỳ giá nào, chúng ta sẽ chiến đấu trên đất Pháp, chiến đấu trên biển, chiến đấu với không lực ngày càng vững mạnh, chiến đấu từ bờ biển vào đất liền, từ nông thôn ra thành thị, lên miền núi, chúng ta quyết không đầu hàng.” Bài phát biểu kia cũng có một câu nổi tiếng “Vì thế chúng ta hãy can đảm để thực hiện những nghĩa vụ của mình, và hãy hành động để, dù Đế chế Anh và Khối thịnh vượng chung của nó tồn tại hàng nghìn năm nữa. ”
Khi trận chiến nước Anh ở thời đỉnh điểm, sự can đảm của ông trước tình thế với câu nói đáng ghi nhớ “Never in the field of human conflict was so much owed by so many to so few“, (tạm dịch: Chưa bao giờ trong chiến tranh lại có biết bao triệu người chịu ơn một số ít người nhiều như vậy), Ý nói về toàn dân Anh chịu ơn một số ít phi công Hoàng gia (Royal Air Force pilots) đã chận đứng phi công Đức bay sang oanh tạc London và những vùng khác ở Anh Quốc – câu nói này khiến ông được các phi công chiến đấu Đồng minh đặt tên hiệu là “The Few”.
Quan hệ tốt của ông với Franklin D. Roosevelt đã giúp Anh Quốc có được nguồn viện trợ sống còn trên những con đường biển ngang Đại Tây Dương. Cũng vì nguyên do này Churchill đã cảm thấy rất nhẹ nhõm khi Roosevelt tái thắng cử. Ngay khi tái cử, Roosevelt lập tức vận dụng một giải pháp mới để không chỉ cung ứng không tính tiền vũ khí mà còn miễn thuế cho hầu hết những con tàu chở hàng viện trợ cho Anh quốc. Một cách đơn thuần, Roosevelt đã thuyết phục nghị viện rằng việc chi trả cho chủ trương vô cùng tốn kém này chính là sự bảo vệ cho nước Mỹ ; và cho nên vì thế chủ trương Lend-lease đã sinh ra. Churchill đã có 12 cuộc gặp gỡ kế hoạch với Roosevelt về Hiến chương Đại Tây Dương, kế hoạch Europe first, Tuyên bố của Hoa Kỳ và những kế hoạch cuộc chiến tranh khác. Churchill đã đặt ra chức Cao ủy Các chiến dịch Đặc biệt ( SOE ) thuộc Bộ Kinh tế thời Chiến Hugh Dalton, chọu nghĩa vụ và trách nhiệm triển khai và tạo điều kiện kèm theo cho những chiến dịch bí hiểm, phá hoại du kích tại những vùng đất bị chiếm đóng với những thành công xuất sắc to lớn ; và cả lực lượng đặc biệt quan trọng trở thành hình mẫu cho đa phần những lực lượng đặc biệt quan trọng ngày này trên quốc tế. Người Nga gọi ông là ” British Bulldog “. Điều này cũng phản ánh dự tính cạnh tranh đối đầu với gian truân của Churchill so với hai liên minh kia là Franklin Roosevelt và Josef Stalin, những người đã tỏ ra chần chừ khi tới thăm những mặt trận. Điều này có nghĩa Churchill tới rất gần quân Đức và có rủi ro tiềm ẩn bị ám sát cao. Quả thực, Churchill đã suýt mất mạng, nhưng không phải bởi những quân địch của mình, mà bởi ông đã thao tác quá mức khi sức khỏe thể chất kém. Ông đã bị một cơn đau tim nhẹ tháng 12 năm 1941 tại Nhà Trắng và một lần nữa vào tháng 12 năm 1943 vì viêm phổi. Đã có những lời đồn thổi rằng trong thực tiễn tim của Churchill đã ngừng đập nhưng nhờ những vệ sĩ của ông hành vi đúng đắn và kịp thời nên đã cứu được ông ; tuy nhiên, điều này chưa khi nào được xác nhận .Một số hoạt động giải trí quân sự chiến lược trong cuộc chiến tranh vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Churchill đã lãnh đạm và có lẽ rằng trực tiếp chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trong Nạn đói Bengal năm 1943 khiến tối thiểu 2.5 triệu người Bengal thiệt mạng. Quân đội Nhật Bản khi ấy đang rình rập đe dọa Ấn Độ thuộc Anh sau khi chiếm đóng nước láng giềng Miến Điện thuộc Anh. Một số người coi chủ trương của cơ quan chính phủ Anh bác bỏ nghĩa vụ và trách nhiệm với nạn đói có tương quan tới chủ trương tiêu thổ có chủ ý và nhẫn tâm trước sự kiện cuộc xâm lược thành công xuất sắc của Nhật Bản. Churchill đã ủng hộ việc ném bom Dresden chỉ một thời hạn ngắn trước khi cuộc chiến tranh kết thúc ; nhiều người vẫn giữ quan điểm rằng tại thành phố này đa phần chỉ có những tiềm năng dân sự và có rất ít giá trị quân sự chiến lược. Tuy nhiên, khi ấy việc ném bom được coi mang lại quyền lợi cho Đồng minh Xô viết .Churchill đã tham gia vào những hiệp ước tái lập những biên giới châu Âu và châu Á thời hậu chiến. Những yếu tố này đã được bàn thảo ngay từ năm 1943. Những đề xuất kiến nghị về những biên giới châu Âu và định cư đã được Harry S. Truman, Churchill, và Stalin chính thức đồng thuận tại Potsdam. Tại Hội nghị Quebec lần hai năm 1944 ông cùng Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt đã soạn thảo và ký kết một phác thảo tiên phong của Kế hoạch Morgenthau, nơi họ cam kết với nhau về hành vi với Đức sau khi nước này đầu hàng vô điều kiện kèm theo đưa nó ” trở thành một vương quốc hầu hết là nông nghiệp và chăn nuôi theo những đặc thù của nó. ” [ 209 ]
Việc xử lý những biên giới của Ba Lan, ví dụ như biên giới giữa Ba Lan và Liên bang Xô viết và giữa Đức và Ba Lan, được coi là một sự phản bội với Ba Lan trong những năm hậu chiến, bởi chúng đi ngược với những quan điểm của nhà nước Hải ngoại Ba Lan. Churchill bị thuyết phục rằng phương pháp duy nhất để giải tỏa những căng thẳng mệt mỏi giữa hai dân tộc bản địa là đưa họ về trong biên giới vương quốc của mình. Như ông đã trình diễn tại Hạ viện năm 1944, ” Sự trục xuất là phương pháp theo đó, ở mức độ như tất cả chúng ta đã thấy, sẽ là cách thích hợp và lâu dài hơn nhất. Sẽ không có sự hòa trộn dân tộc bản địa để gây ra những cuộc căng thẳng mệt mỏi không khi nào chấm hết … Một chiến dịch chuyển dời sẽ được thực thi. Tôi không lo ngại trước những cuộc chuyển dời đó, chúng đang ở những điều kiện kèm theo thuận tiện nhất để triển khai trong thực trạng lúc bấy giờ. ” Hậu quả của những cuộc chuyển dời người Đức sau thế chiến II là sự khó khăn và dẫn tới cái chết của 2.100.000 người. Churchill đã phản đối sự sáp nhập Ba Lan của Liên bang Xô viết và đã viết về điều này một cách chua chát trong những cuốn sách của ông, nhưng ông không hề ngăn ngừa nó tại những cuộc hội nghị .
Churchill ra dấu hiệu chữ V (Victory: chiến thắng) nổi tiếng của ông
Ngày 9 tháng 10 năm 1944, ông và Eden xuất hiện tại Moskva, và buổi tối hôm đó họ đã gặp Stalin tại Kremlin, mà không có sự hiện hữu của người Mỹ. Cuộc mặc cả diễn ra suốt buổi tối. Churchill đã viết trong một mảnh giấy nhỏ rằng Stalin có được 90 Xác Suất ” quyền lợi ” tại Romani, Anh Quốc 90 Phần Trăm ” quyền lợi ” tại Hy Lạp, cả Nga và Anh Quốc đều có 50 Phần Trăm quyền lợi tại Nam Tư. Khi nói tới Italia, Stalin đã nhường nước này cho Churchill. Vấn đề mấu chốt phát sinh khi những Bộ trưởng Ngoại giao tranh luận về số ” Xác Suất ” tại Đông Âu. Những đề xuất kiến nghị của Molotov rằng nước Nga sẽ có 75 Tỷ Lệ quyền lợi tại Hungary, 75 Tỷ Lệ tại Bulgaria, và 60 Tỷ Lệ tại Nam Tư. Đây chính là cái giá của Stalin để nhường Italia và Hy Lạp. Eden đã tìm cách mặc cả : Hungary 75/25, Bulgaria 80/20, nhưng Nam Tư 50/50. Sau một cuộc mặc cả lê dài họ quyết định hành động phân loại 80/20 về quyền lợi giữa Nga và Anh tại Bulgaria và Hungary, và 50/50 tại Nam Tư. Đại sứ Hoa Kỳ Harriman chỉ được thông tin sau khi mọi việc đã được dàn xếp. Thỏa thuận giữa những quý ông ngoại giao này được ghi nhận bằng một cái bắt tay .
Năm 1963, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã trao tặng giải Công Dân Danh Dự Hoa Kỳ cho Churchill. Vì già yếu, Churchill không dự được buổi lễ ở Nhà Trắng, con và cháu ông thay mặt đại diện nhận giải .Churchill sống trong bí mật những năm cuối cuộc sống. Ông và người con trai ( Randolph Churchill ) không hàn gắn được mối liên hệ khúc mắc giữa hai người. Con gái trưởng là Diana tự vẫn vào mùa thu 1963 ; con gái thứ Sarah ngày càng nghiện rượu hơn. Trong lễ đại thọ 90 tuổi của ông vào tháng 11 năm 1964, ông đứng trước hành lang cửa số nhà số 28 Cửa Hyde Park ( Luân Đôn ) cho phóng viên báo chí chụp ảnh. Ông trông già nua và thiểu não .Ngày 15 tháng 1 năm 1965, Churchill một lần nữa bị tắc nghẽn mạch máu não và mê man. Ông mất tại tư gia chín ngày sau đó, vào lúc sau tám giờ sáng ngày Chủ Nhật 24 tháng 1 năm 1965, hưởng thọ 91 tuổi .Gia đình và dòng họ[sửa|sửa mã nguồn]
Hôn nhân và con cháu[sửa|sửa mã nguồn]
Churchill kết hôn với bà Clementine Hozier vào tháng 9 năm 1908. Hôn nhân của hai người họ vững chắc suốt 57 năm. Churchill nhận thức rõ sự nghiệp chính trị của ông ảnh hưởng tác động thế nào đến mối quan hệ vợ chồng. Theo nhà sử học Colville, ông có lẽ rằng đã từng ngoại tình với Doris Castlerosse vào khoảng chừng những năm 1930, [ 213 ] tuy nhiên điều này bị bác bỏ bởi Andrew Roberts .Người con đầu lòng của mái ấm gia đình Churchill, Diana, chào đời tháng 7 năm 1909. Người con thứ hai, Randolph, chào đời tháng 5 năm 1911. Người con thứ ba, Sarah, chào đời tháng 10 năm 1914, và người con thứ tư, Marigold, chào đời tháng 11 năm 1918. Marigold qua đời vào tháng 8 năm 1921 do nhiễm trùng họng, được chôn cất tại Nghĩa trang Kensal Green. Mặc dù thi hài của bé được di tán đến sân nhà thời thánh Bladon vào năm 2019 cùng nơi an nghỉ của mái ấm gia đình, hiện vẫn có một cột đá cenotaph tưởng niệm được dựng ở Kensal Green. Người con cuối của Churchill, Mary, chào đời ngày 15 tháng 9 năm 1922. Cùng tháng đó, mái ấm gia đình Churchill mua dinh thự Chartwell và sống ở đây đến khi Winston qua đời vào năm 1965. Theo Jenkins, Churchill là một ” người cha yêu thương và nhiệt tình ” tuy nhiên đặt nặng kỳ vọng vào con cháu .
- ^ Spencer Churchill (không gạch ngang), song thường chỉ rút ngắn thành Churchill. Cha ông là người lược bỏ cái tên Spencer.
Tên họ hai phần là, song thường chỉ rút ngắn thành. Cha ông là người lược bỏ cái tên Spencer.
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
- Thư mục và sưu tập trực tuyến
- Ghi âm
- Bảo tàng, kho lưu trữ và thư viện
Bản mẫu : Churchill
Source: https://suadieuhoa.edu.vn
Category : Hỏi Đáp