Nhà Nguyễn – Wikipedia tiếng Việt

Nhà Nguyễn (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: Nguyễn triều) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi Nguyễn Ánh (Gia Long) lên ngôi hoàng đế năm 1802 và kết thúc khi Bảo Đại thoái vị vào năm 1945, tổng cộng là 143 năm. Triều Nguyễn là một triều đại đánh dấu nhiều thăng trầm trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt là cuộc xâm lược của người Pháp giữa thế kỷ 19.

Từ năm 1802 – 1884, những vua nhà Nguyễn nắm toàn quyền quản trị quốc gia, trải qua 4 đời vua : Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. [ 9 ] Gia Long và sau đó là Minh Mạng đã cố gắng nỗ lực thiết kế xây dựng Nước Ta trên cơ sở nền tảng Nho giáo. Trong thời kỳ này, nội bộ quốc gia không không thay đổi, triều Nguyễn ít được lòng dân, chỉ trong 60 năm đã xảy ra hơn 400 cuộc nổi dậy của người dân. [ 10 ] Gia Long tăng thuế khóa và lao dịch quá nặng khiến người dân bất bình, đến thời Minh Mạng thì lại diễn ra nhiều cuộc chiến tranh giành chủ quyền lãnh thổ ở Campuchia nên đã khiến ngân khố hết sạch, đến thời Tự Đức thì mọi mặt của quốc gia đều sút kém. Từ thập niên 1850, một nhóm tri thức Nước Ta, tiêu biểu vượt trội là Nguyễn Trường Tộ, đã nhận ra sự ngưng trệ của quốc gia và nhu yếu học hỏi phương Tây để tăng trưởng công nghiệp – thương mại, cải cách quân sự chiến lược – ngoại giao, nhưng họ chỉ là thiểu số, còn đa phần quan chức triều Nguyễn và giới sĩ phu không ý thức được sự thiết yếu của việc cải cách và Open quốc gia nên Tự Đức không quyết tâm thực thi những yêu cầu này. [ 11 ] Nước Đại Nam dần trở nên ngưng trệ, lỗi thời và đứng trước rủi ro tiềm ẩn bị thực dân châu Âu lấn chiếm .

Từ năm 1884–1945, Đại Nam bị Pháp xâm lược và đô hộ, kể từ khi quân Pháp đánh Đà Nẵng và kết thúc sau khi Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Tháng 8 năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng và sau đó rút vào xâm chiếm Gia Định. Tháng 6 năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp ước cắt nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thuộc địa Cochinchine (Nam Kỳ). Sau khi củng cố vị trí vững chắc ở Nam Kỳ, từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến ở Bắc Kỳ. Đến năm 1884 thì nhà Nguyễn chính thức công nhận quyền cai trị của Pháp trên toàn Việt Nam. Pháp có thực quyền cai trị, còn các vua nhà Nguyễn tuy vẫn giữ ngôi vua nhưng chỉ còn là bù nhìn, quân Pháp có thể tùy ý phế lập vua nhà Nguyễn sau đó. Giai đoạn này kết thúc khi Nhật đảo chính Pháp nhưng thua khối Đồng Minh do Mỹ dẫn đầu trong Thế chiến 2 rồi Bảo Đại tuyên bố thoái vị ngay sau đó vào ngày 30 tháng 8 năm 1945 sau khi Nhật Bản đầu hàng quân đội đồng minh.[11]

Những Nội Dung Chính Bài Viết

Thời kỳ độc lập

Thành lập

Năm 1778, Nguyễn Ánh quay lại và tập hợp lực lượng chiếm được Gia Định và đến năm 1780, ông xưng vương. Trong mùa hè năm 1781, quân đội của Nguyễn Ánh lên đến khoảng chừng 3 vạn người với 80 con thuyền đi biển, 3 thuyền lớn [ 12 ] và 2 tàu Bồ Đào Nha do giám mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh mời được. [ 13 ] [ 14 ] Ông tổ chức triển khai tiến công Tây Sơn đánh tới tận đất Phú Yên nhưng sau cùng phải tháo chạy vì gặp bộ binh rất mạnh của Tây Sơn. [ 14 ] Tức giận vì tốn kém nhưng không thu được hiệu quả, quan lại Gia Định để cho một người phụ việc của Bá Đa Lộc là cai cơ Manuel ( Mạn Hòe ) [ a ] lập mưu giết chết những tay lính đánh thuê Bồ Đào Nha và cướp tàu của họ. [ 14 ]Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức mang quân thủy bộ Nam tiến. Tây Sơn đụng trận kinh hoàng ở sông Ngã Bảy, cửa Cần Giờ với quân đội nhà Nguyễn do chính Nguyễn Ánh chỉ huy. Dù lực lượng thuyền của Quân đội Tây Sơn yếu hơn, nhưng họ đã phá vỡ quân Nguyễn, buộc Manuel tự sát, tuy nhiên cũng thiệt hại khá nhiều chiến binh. [ 15 ] Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp. [ 16 ] Vua Thái Đức khi tiến công Nam Bộ tại Cù lao Phố đã gặp phải sự chống đối mạnh của người Hoa ủng hộ Nguyễn Ánh tại đây khiến cho một thân tướng là Đô đốc Phạm Ngạn tử trận, binh lính thương vong nhiều, nên ông rất đau đớn rồi nổi giận ra lệnh tàn sát người Hoa ở Gia Định để trả thù. [ 17 ] [ 18 ] Việc này đã cản chân quân đội nhà Tây Sơn trong việc truy bắt Nguyễn Ánh, khiến cho Nguyễn Ánh có thời cơ quay trở về Giồng Lữ, một đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Học đem quân đuổi theo Ánh bị quân đội nhà Nguyễn bắt giết khiến cho Nguyễn Ánh có được 80 thuyền của quân đội nhà Tây Sơn. Nguyễn Ánh thấy vậy định kéo về chiếm lại Gia Định nhưng đụng Nguyễn Huệ dàn binh quay sống lưng ra sông vượt mặt khiến Nguyễn Ánh phải chạy về Hậu Giang, Rạch Giá, Hà Tiên rồi theo thuyền nhỏ trốn ra Phú Quốc. [ 19 ]

Sau khi chiến thắng quân Bát kỳ của nhà Thanh, vua Quang Trung đang chuẩn bị phối hợp với Nguyễn Nhạc đem quân vào Nam đánh Gia Định thì đột ngột qua đời (1792), con là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối ngôi, hiệu là Cảnh Thịnh. Loạn lạc liền nổ ra ở Bắc Hà, sĩ phu trung thành với nhà Lê nổi lên tôn Lê Duy Cận làm minh chủ. Duy Cận liên lạc với Nguyễn Ánh để cùng đánh Tây Sơn,[20] việc này góp phần làm cho nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Nội bộ Nhà Tây Sơn xảy ra tranh chấp, quyền hành rơi vào tay ngoại thích Bùi Đắc Tuyên.[21] Từ đó, Nguyễn Ánh ra sức mở các đợt tấn công ra Quy Nhơn theo nguyên tắc đã định trước đó: “Gặp nồm thuận thì tiến, vãn thì về, khi phát thì quân lính đủ mặt, về thì tản ra đồng ruộng“.[22] Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn định cho sứ đi ngoại giao với nhà Thanh, lợi dụng mâu thuẫn và thù hằn của quốc gia này với Tây Sơn, và cả sự có mặt của Lê Chiêu Thống bên đó để khiến nhà Thanh giúp mình, nhưng việc không thành do khi sứ của Nguyễn Ánh là Ngô Nhơn Tĩnh và Phạm Thận sang đến nơi thì Lê Chiêu Thống đã mất.[23]

Năm 1793, Nguyễn Ánh cùng những tướng Võ Di Nguy, Nguyễn Văn Trương, Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Phước Hội, Philippe Vannier, Nguyễn Văn Hòa, Chưởng cơ Cố [ 24 ] đem quân đánh Nha Trang, Diên Khánh, Phú Yên rồi tranh thủ đánh tới tận thành Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc cầu cứu quân ở Phú Xuân. Vua Cảnh Thịnh sai Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng, đô đốc Hố và Chưởng cơ Thiêm đem 17.000 quân, 80 thớt voi, và 30 chiếc thuyền chia nhiều đường tiến vào cứu, quân Nguyễn Ánh rút lui, [ 25 ] [ 26 ] trên đường về ông sai quân đắp thành Diên Khánh để tận dụng vị trí nơi này làm bàn đạp chống Tây Sơn. Cùng thời hạn, quân Phú Xuân của Tây Sơn nhân dịp đánh chiếm luôn thành Tỉnh Bình Định và kho tàng của Nguyễn Nhạc. Lúc đó Nguyễn Nhạc đang bệnh trên giường, nghe tin gia tài mà ông để lại cho con mình là Quang Bảo bị chiếm mất, uất quá thổ huyết mà qua đời. [ 27 ] [ 28 ] Quang Toản cho an trí Quang Bảo ra huyện Phù Ly và quản lý hàng loạt đất đai của Nguyễn Nhạc. [ 27 ]Từ năm 1794 đến năm 1795, Tây Sơn phản công, họ cho quân nhiều lần vào đánh Phú Yên, vây thành Diên Khánh, [ 21 ] quân Nguyễn cũng ra sức chống cự, nhiều lần ngưng trệ, thậm chí còn là đánh lại được quân Tây Sơn. [ 29 ] Tuy nhiên nội bộ Tây Sơn lại xích míc, những tướng tranh quyền. Vũ Văn Dũng giết Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở, Quang Toản nhỏ tuổi không làm gì được. Trần Quang Diệu đang đi đánh Nguyễn Ánh, nghe tin đành rút quân về, suýt giao tranh với Vũ Văn Dũng may nhờ có Quang Toản sai quan ra khuyên giải Trần Quang Diệu mới đồng ý chấp thuận hòa. Nhưng sau đó Quang Toản lại nghe lời gièm pha tước mất binh quyền của Trần Quang Diệu, Tây Sơn từ đó cứ lục đục mãi, những quan nghi kị giết hại lẫn nhau tạo điều kiện kèm theo thuận tiện cho Nguyễn Ánh. [ 30 ] [ 31 ] Năm 1797, Nguyễn Ánh cho quân ra đánh Phú Yên, riêng ông thì cùng Nguyễn Phúc Cảnh chỉ huy thủy quân ra tận Quy Nhơn giao chiến với tướng Tây Sơn là Lê Trung tại Thị Nại thu được nhiều khí giới, [ 32 ] nhưng khi tới Quy Nhơn thấy thế lực Tây Sơn thủ mạnh quá đành vòng lên đánh Quảng Nam nhưng được mấy tháng lại rút về [ 33 ] vì thuyền chở quân lương từ Gia Định bị ngược gió không lên kịp. [ 32 ]Nguyễn Ánh chiêu dụ Nguyễn Quang Bảo nhưng việc chưa thành vì Quang Toản ra tay trước, bắt và giết được Quang Bảo. [ 32 ] Nhưng Tây Sơn lại rơi vào lục đục, Quang Toản hoài nghi giết hại nhiều triều thần, võ tướng, khiến cho sức chiến đấu suy giảm, thêm nhiều người sang hàng Nguyễn Ánh. [ 34 ] [ 35 ] Năm 1799, Nguyễn Ánh cho sứ nhu yếu vua Xiêm La cho một đạo quân Chân Lạp và Vạn Tượng đi đến sát biên giới Nghệ An để nghi binh và vua Xiêm chấp thuận đồng ý làm theo. [ 36 ] Cũng trong năm 1799, Nguyễn Ánh tự cầm quân đi đánh thành Quy Nhơn, [ 35 ] tướng giữ thành của Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu hàng dù trước đó Quang Toản đã sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem quân vào cứu. [ 37 ] Sau đó, Nguyễn Ánh đổi tên Quy Nhơn thành Tỉnh Bình Định, [ 38 ] rồi cho quân tới trấn giữ thành. Tây Sơn ngay lập tức tìm cách chiếm lại ; tháng 1 năm 1800, hai danh tướng Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng kéo đến vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Ánh cho quân ra cứu nhưng bị bộ binh Tây Sơn chặn lại, ông chia quân đi đánh những nơi và thắng nhiều trận, trong đó có một trận lớn ở Thị Nại. [ 39 ] Thấy thế Tây Sơn vây Quy Nhơn còn mạnh, Nguyễn Ánh cho người lẻn mang thư đến bảo tướng quân Nguyễn giữ thành là Võ Tánh mở đường máu mà trốn ra nhưng Võ Tánh quyết tử thủ để tạo điều kiện kèm theo cho Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân, [ 39 ] việc này khiến thời hạn hai danh tướng Tây Sơn bị cầm chân lên hơn một năm. [ 40 ] Năm 1801, Nguyễn Ánh nhận thấy tinh binh Tây Sơn đều tập trung chuyên sâu cả ở mặt trận Quy Nhơn nên mang quân nòng cốt vượt biển ra đánh Phú Xuân. Tháng 5 năm 1801, Nguyễn Ánh kéo quân giao chiến kinh hoàng với Tây Sơn ở cửa Tư Dung ; [ 39 ] rồi đụng Quang Toản ở cửa Eo, [ 39 ] Quang Toản thua trận bỏ chạy ra Bắc [ 41 ] và đến ngày 3 tháng 5, Nguyễn Ánh giành được Phú Xuân. [ 39 ]

Cùng thời gian nghe tin Phú Xuân bị tấn công, Trần Quang Diệu đang vây Quy Nhơn sai binh về cứu nhưng bị quân Nguyễn chặn đánh nên quân không về được, ông chỉ còn cách cố gắng đốc binh chiếm thành.[41] Đầu năm 1802, Tây Sơn mới chiếm lại thành Quy Nhơn, Võ Tánh tự vẫn để xin tha mạng cho binh sĩ[42]. Trần Quang Diệu tha cho binh lính Nguyễn, an táng Võ Tánh và thuộc tướng[42] rồi bỏ thành Quy Nhơn; cùng Vũ Văn Dũng mang quân cứu viện ra Nghệ An, bị quân Nguyễn chặn đường, phải vòng qua đường Vạn Tượng.[43] Lúc tới Nghệ An thì thấy thành đã mất, quân sĩ bỏ chạy gần hết, vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân bị bắt,[44] Vũ Văn Dũng không rõ số phận.[b] Cũng trong thời gian này, sau khi chiến thắng quân Tây Sơn, hoàn toàn chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế ngày 1 tháng 6 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1802).[38][45] Để tượng trưng sự thống nhất Nam–Bắc lần đầu tiên sau nhiều năm, Nguyễn Ánh chọn niên hiệu là Gia Long, chữ Gia lấy từ Gia Định và Long lấy từ Thăng Long.[46] Sau đó ông cho người đem toàn bộ ấn sách nhà Thanh trao cho Tây Sơn trả lại và xin phong, rồi sai Lê Văn Duyệt kéo quân tiếp ra Bắc Hà diệt hoàn toàn nhà Tây Sơn.[44]

Tổ chức cỗ máy

Quan chế và tổ chức triển khai chính quyền sở tại TW

Phẩm phục của quan văn (trái) và quan võ (phải).

Ngay từ sớm, Nguyễn Ánh đã phong tước, đặt quan lại cho những người theo phò tá mình. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và trở thành hoàng đế Gia Long, ông lại tiếp tục kiện toàn lại hệ thống hành chính và quan chế của chính quyền mới. Nhà Nguyễn về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền trung ương giống như các triều đại nhà Lê trước đó. Đứng đầu nhà nước là hoàng đế, nắm mọi quyền hành trong tay. Giúp hoàng đế giải quyết giấy tờ, văn thư và ghi chép có Văn thư phòng (năm 1829 đổi là Nội các). Về việc quân quốc trọng sự thì có 4 vị Điện Đại học sĩ gọi là Tứ trụ Đại thần, đến năm 1834 trở thành viện Cơ mật. Ngoài ra còn có Tông nhân phủ phụ trách các công việc của Hoàng gia.[47]

Bên dưới, triều đình lập ra 6 Bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng thư chịu nghĩa vụ và trách nhiệm chỉ huy những việc làm chung của Nhà nước, những bộ gồm : Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hình và Bộ Công. [ 48 ] Bên cạnh 6 Bộ còn có Đô sát viện ( tức là Ngự sử đài gồm có 6 khoa ) chịu nghĩa vụ và trách nhiệm thanh tra quan lại, Hàn lâm viện đảm nhiệm những sắc dụ, công văn, 5 Tự phụ trách 1 số ít sự vụ, phủ Nội vụ coi sóc những kho tàng, Quốc tử giám đảm nhiệm giáo dục, Thái y viện chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về việc chữa bệnh và thuốc thang, … cùng với 1 số ít Ti và Cục khác .

Theo Trần Trọng Kim, người ta “thường hiểu mấy chữ quân chủ chuyên chế theo nghĩa của các nước Tây Âu ngày nay, chứ không biết mấy chữ ấy theo cái học Nho giáo có nhiều chỗ khác nhau…” [9] Theo tổ chức của nhà Nguyễn, khi có việc gì quan trọng, thì vua giao cho đình thần các quan cùng nhau bàn xét. Quan lại bất kỳ lớn bé đều được đem ý kiến của mình mà trình bày. Việc gì đã quyết định, đem dâng lên để vua chuẩn y, rồi mới thi hành. Hoàng đế tuy có quyền lớn nhưng lại không được làm điều gì trái phép thường. Khi vua có làm điều gì sai thì các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can ngăn vua và thường là vua phải nghe lời can ngăn của những người này.[49] Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Người dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc tại địa phương. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.

Ngạch quan lại chia làm 2 ban văn và võ. Kể từ thời vua Minh Mạng được xác lập rõ ràng giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh và tòng 2 bậc. Trừ khi cuộc chiến tranh loạn lạc còn thông thường quan võ phải dưới quan văn cùng phẩm với mình. Quan Tổng đốc ( văn ) vừa quản lý tỉnh vừa chỉ huy quân lính của tỉnh nhà. [ 50 ] Lương bổng của những quan tương đối ít nhưng quan lại được hưởng nhiều quyền lợi và nghĩa vụ, cha họ được khỏi đi lính, làm sưu và miễn thuế tùy theo quan văn hay võ, hàm cao hay thấp. Ngoài ra con cháu những quan còn được hưởng lệ tập ấm. Tuy cỗ máy không thật sự cồng kềnh, nhưng tệ tham nhũng vẫn là một trong những yếu tố lớn. Trong bộ luật triều Nguyễn có những hình phạt rất nghiêm khắc so với tội này. [ 51 ]

Phân chia hành chính

An Nam đại quốc họa đồ do giáo sĩ Jean-Louis Taberd vẽ vào triều vua Minh Mạng, in lại trong sách Dictionarium Latino-Annamiticum completum et novo ordine dispositum (Từ điển Việt-La) năm 1838.
Bản đồ đế quốc Đại Nam năm 1844 (trích từ bản đồ vùng Viễn Ấn (Hinter Indien) của Carl Christian Franz (1788–1874).).
Quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ của Đức năm 1876 vẽ vùng Viễn Ấn Hinter-Indien với lời ghi rõ quần đảo thuộc xứ “Annam”
Nước Đại Nam của nhà Nguyễn vào thời điểm kết thúc độc lập năm 1883-1884, lãnh thổ chính bị chia thành 3 xứ Nam Kỳ thuộc địa (Cochinchina), Trung Kỳ (Annam), Bắc Kỳ (Tonkin) thuộc Pháp. Lãnh thổ cực đại của nhà Nguyễn thời độc lập tương đương với 3 xứ này và những vùng hay vương quốc mà nhà Nguyễn từng sáp nhập ở xung quanh: Trấn Ninh, Tây Nguyên (Pays de Mois), và Trấn Tây (Cambodge 1834-1840).
Năm 1802, trong khi đã quyết định hành động Phú Xuân là quốc đô, Nguyễn Ánh vẫn tạm đặt 11 trấn phía Bắc ( tương tự khu vực Bắc Bộ thời nay ) thành một Tổng trấn với tên cũ Bắc Thành, do một Tổng trấn đứng đầu .Đến thời Minh Mạng, để nhất thể hóa những đơn vị chức năng hành chính trong cả nước, năm 1831 – 1832, nhà vua thực thi một cuộc cải cách hành chính lớn, theo đó bỏ những tổng trấn, đổi những dinh, trấn thành tỉnh. Đây là lần đầu tiên, đơn vị chức năng hành chính tỉnh Open ở Nước Ta. Năm 1831, Minh Mạng đổi những trấn từ Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh, và vùng còn lại ở phía Nam được chia làm 12 tỉnh. Thừa Thiên, nơi tọa lạc của kinh đô Phú Xuân, là phủ thường trực Trung ương. Cả nước được chia làm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên. [ 47 ]Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc ( mỗi người đảm nhiệm 2 – 3 tỉnh và chuyên trách 1 tỉnh ) và Tuần phủ ( dưới Tổng đốc, đảm nhiệm chỉ 1 tỉnh ). Giúp việc có Bố chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính ; Án sát sứ ti lo về bảo mật an ninh, pháp luật. Phụ trách về quân sự chiến lược có chức lãnh binh. Các quan chức đứng đầu tỉnh đều do chính quyền sở tại TW trực tiếp chỉ định, và thường là võ quan hạng sang, về sau mới bổ dụng thêm những quan văn. [ 47 ] Hệ thống chính quyền sở tại được phân biệt rõ ràng giữa Trung ương và địa phương, và trong mạng lưới hệ thống này nhà vua, người đứng đầu quốc gia, nắm nhiều quyền lực tối cao hơn hẳn so với những thời kỳ trước. [ 47 ]Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do người dân tự lựa chọn cử ra quản trị. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của những làng cử ra quản trị thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng. [ 53 ] Nhìn chung, cơ cấu tổ chức hành chính của những tổng, xã được tổ chức triển khai khá ngặt nghèo để triều đình thuận tiện quản trị và phản ứng mau lẹ khi có sự biến xảy ra. [ 47 ]Đối với vùng thượng du và với những khu vực sinh sống của những dân tộc thiểu số, Minh Mạng thực thi nhất thể hóa về mặt hành chính cùng với những vùng miền xuôi. Năm 1829, ông bãi bỏ chế độ thế tập của những Thổ ti ( những tù trưởng của dân tộc thiểu số ) mà cho quan lại lựa chọn những thổ hào ở địa phương làm Thổ tri những châu huyện. Sau đó, Minh Mạng còn đặt thêm một chức lưu quan do người Kinh nắm giữ để khống chế những vùng này tốt hơn và triển khai thu thuế như ở miền xuôi. Tuy nhiên, do phản ứng của người dân địa phương, vua Tự Đức sau đó đã bãi bỏ chính sách lưu quan. [ 47 ]Tính đến cuối thế kỷ 19, Nước Ta có 98 phủ gồm có 342 huyện và châu. [ 54 ]Đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vua Gia Long từ năm 1816 đã chính thức ra lệnh tiếp thu Hoàng Sa, cắm cờ trên hòn đảo và đo thủy trình. Sang triều Minh Mạng, nhà Nguyễn cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều trách nhiệm hơn : khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên hòn đảo và trách nhiệm biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này liên tục hoạt động giải trí cho đến khi người Pháp vào Đông Dương. Từ thập niên 1890, chính quyền sở tại Bảo hộ nhân danh triều đình Huế của nhà Nguyễn cũng có dự tính dựng ngọn hải đăng để khẳng định chắc chắn chủ quyền lãnh thổ của Pháp trên quần đảo Hoàng Sa nhưng đồ án không triển khai được và mãi đến năm 1938 mới có lực lượng chính thức chiếm đóng quần đảo này. [ 55 ] Dù vậy, khi nhà Thanh gửi thuyền xâm phạm quần đảo Hoàng Sa vào những năm đầu thế kỷ 20 thì Bộ Ngoại giao Pháp đã có công văn phản đối. Cuộc tranh chấp này lê dài cho đến khi người Pháp mất chủ quyền lãnh thổ ở Đông Dương và vẫn chưa kết thúc. [ 56 ]

Quân đội

Binh lính người Việt thời Nguyễn
Một trong những thành quả Gia Long đạt được sau nhiều năm nội chiến với Tây Sơn là quân đội mạnh với trang bị và tổ chức triển khai kiểu phương Tây. Sau khi làm chủ hàng loạt vương quốc, nhà Nguyễn xây dựng quân đội triển khai xong hơn, chính quy hơn. Để sung binh ngạch mới, vua Gia Long cho thực thi phép giản binh, theo hộ tịch tùy nơi mà định, lấy 3, 5 hay 7 suất đinh tuyển 1 người lính. [ 57 ] Quân chính quy đóng tại kinh thành và những nơi xung yếu ; những địa phương đều có lực lượng vũ trang tại chỗ làm trách nhiệm trị an. Quân chính quy có 14 vạn người, [ 58 ] ngoài ra còn có quân trừ bị. Quân đội còn được tổ chức triển khai thành 4 binh chủng : bộ binh, tượng binh, thủy binh và pháo binh, trong đó bộ binh và thủy binh được chú trọng thiết kế xây dựng để tác chiến độc lập. Trình độ chính quy thống nhất cao. Ngoài vũ khí truyền thống, quân chính quy được trang bị hỏa khí mua của phương Tây như đại bác, súng trường, thuyền máy, thuốc nổ … Các loại súng thần công, đại bác được đúc với kích cỡ, khối lượng thống nhất ; thành lũy, đồn to nhỏ cũng được pháp luật cho từng cấp với số lượng quân nhất định .
Một khẩu đại bác của quân đội nhà Nguyễn ở thành Gia Định xưa.
Sự chăm sóc tới khoa học quân sự chiến lược phương Tây của Gia Long được xem là do tình thế bắt buộc thì với Minh Mạng lại trọn vẹn tự nguyện. Minh Mạng lấy phương Tây làm kiểu mẫu cho việc tổ chức triển khai quân đội, hướng đến việc quân cần tinh nhuệ nhất, không cần nhiều, bỏ bớt số lượng người cầm cờ từ 40 người xuống 2 người trong đội ngũ đơn vị chức năng 1 vệ ( 500 người ). [ 59 ] Phương thức tác chiến được những học giả Mãn Thanh ghi nhận là giống hệt kiểu Pháp, do trong quân đội Minh Mạng có thuê những sĩ quan huấn luyện và đào tạo đến từ phương Tây. [ 59 ] Có thể nói, quân đội nhà Nguyễn thời Minh Mạng là lực lượng quân sự chiến lược tân tiến văn minh nhất ở khu vực Đông Á, tiêu biểu vượt trội những nước láng giềng như Trung Quốc, xứ sở của những nụ cười thân thiện, Campuchia. [ 60 ]

Sang thời Tự Đức, công tác quốc phòng của nhà Nguyễn bị sa sút và có sự tương phản rõ rệt với các triều vua trước. Một trong các lý do khiến tình hình quân đội suy sút là vấn đề tài chính. Vũ khí và trang thiết bị làm mới gần như không có. Trang bị bộ binh rất lạc hậu: 50 người mới có 5 súng, mỗi năm chỉ tập bắn 1 lần 6 viên đạn. Vũ khí được bảo trì cũng kém. Về thủy binh, không tàu hơi nước nào được đóng mới, thủy quân thậm chí không đủ khả năng bảo vệ bờ biển chống hải tặc. Việc giảng dạy binh pháp không chú trọng tới sách vở phương Tây nữa mà quay trở lại với Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Đời sống quân lính không được quan tâm thỏa đáng, lương thực lại bị ăn bớt. Do đó tinh thần chiến đấu của quân sĩ không cao.[59] Quan điểm khoa học quân sự của vua quan nhà Nguyễn không hề vượt quá khuôn khổ của khoa học quân sự phong kiến. Việc không bắt kịp với thành tựu mới của khoa học phương Tây thời Tự Đức khiến quân sự Việt Nam bị lạc hậu nhiều. Do đó, khi người Pháp vào xâm lược Việt Nam (1858), khoảng cách về trang thiết bị giữa quân đội nhà Nguyễn và quân Pháp đã khá xa.[59]

Thuế khóa và lao dịch

Việc hoạt động và sinh hoạt vương quốc yên cầu phải có đủ kinh tế tài chính để duy trì cỗ máy triều đình nên sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã tổ chức triển khai lại yếu tố đăng tịch, bắt buộc mỗi làng xã phải ghi vào sổ đinh trong làng số đàn ông từ 18-60 tuổi. [ 61 ] Các đinh bộ không khi nào kê khai hết toàn bộ số đàn ông trong làng vì ngoài dân đinh còn có 1 số ít người là dân ngoại tịch, dân lậu, những người nghèo khó, vô sản, không hề đánh thuế cũng như những người mới tới làng định cư [ 62 ] .Do tổ chức triển khai xã hội Nước Ta cơ bản dựa trên xã, thôn nên triều đình không yên cầu người dân phải trả thuế trực tiếp mà giao cho làng lo việc thuế má và sưu dịch, không cần biết làng sẽ phân loại nghĩa vụ và trách nhiệm giữa những dân làng thế nào. Mỗi làng hưởng quyền tự trị rất lớn, tự họ quản lý theo những tục lệ riêng ghi trong hương ước của làng. Hội đồng Kỳ mục trông coi toàn bộ công sản ( gia tài công ) và thuế khóa, đê điều, trị an. Họ cũng phải lo phân phối công điền ( ruộng công ) giữa những dân đinh mỗi kỳ quân cấp và chỉ định người trẻ tuổi đi lính .Về thuế nhân đinh và thuế ruộng, nhà Nguyễn xóa bỏ tổng thể chính sách thuế khóa cũ của Tây Sơn để đặt lại thuế khóa mới nặng hơn thời trước. Vua Gia Long cho sửa lại hộ tịch và điền tịch đã hư hỏng qua thời nội chiến. Hộ tịch phân ra 9 hạng, tùy từng hạng mà nộp thuế hàng loạt hay được miễn giảm 50% hoặc miễn trừ cả sưu thuế lẫn sai dịch. Thuế đinh nhà Nguyễn đặc biệt đánh nặng lên dân Thanh – Nghệ và Bắc Hà. Dân công nghệ tiên tiến thì nộp thuế sản vật. Thời Minh Mạng thì định lại thuế điền, chia cả nước ra 3 khu vực để đánh thuế. Thuế điền thì dân Thanh Nghệ và Bắc Hà cũng bị nặng hơn ở những miền khác. Theo thống kê của bộ Hộ thì số đinh năm đầu đời Gia Long là 992.559 người, cuối đời Thiệu Trị là 1.024.380 người. Về điền thổ thì đầu đời Tự Đức có 3.398.584 mẫu ruộng và 502.672 mẫu đất. [ 63 ]

Mỗi người dân đinh phải chịu 60 ngày lao dịch cho triều đình. Lao dịch thường là để làm các mục đích, xây sửa hệ thống đê điều, kênh rạch, sông ngòi; xây đắp các thành lũy; xây dựng các cung điện cho hoàng gia. Trên thực tế, người dân phải lao dịch khá nặng trong thời gian vương triều Nguyễn xây dựng các cung điện, lăng tẩm, dinh thự,… Ví dụ năm 1807, ngay khi kinh thành Huế vừa được xây xong, vua Gia Long lại huy động hàng nghìn dân đinh và binh lính tiếp tục sửa chữa và tu bổ thêm trong một thời gian dài. Vua Minh Mạng cũng tiếp tục công việc xây dựng kinh đô. Vua Thiệu Trị thì không tập trung xây dựng kinh đô nữa, nhưng, trong một cuộc tuần du lớn ra Bắc Kỳ năm 1842, người dân đã phải xây 44 hành cung cho một phái đoàn đông đến 17.500 người, 44 con voi và 172 con ngựa của nhà vua.[64] Theo nhận xét của giáo sĩ Pháp Guérard: “Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm người ta rên xiết hơn cả thời Tây Sơn: thuế khóa và lao dịch đã tăng lên gấp ba”[64].

Việc xây thành Phú Xuân và đào kênh Vĩnh Tế phải huy động hàng vạn dân phu đi lao dịch. Một người Pháp là Borel viết năm 1818 mô tả việc xây thành Phú Xuân (Huế): “Nhà vua sử dụng tất cả nhân lực vào việc xây tòa thành và các công trình công cộng khác. Khi tôi đến Huế, đã có đến 8 vạn người được điều động từ các nơi trong cả nước đang khẩn trương xây dựng một tòa thành rộng lớn bằng gạch… Riêng việc xây bờ thành đã tốn kém những khoản tiền khổng lồ và làm thiệt hàng ngàn nhân mạng vì phải khổ dịch liên tục… Nhà vua [Gia Long] đã vung ra những món tiền lớn và hy sinh tính mạng của hàng ngàn dân chúng vì họ phải làm việc không nghỉ tay trên các tường lũy của kinh thành. Đây quả là một công trình kỳ diệu. Mười vạn người được thường xuyên huy động”[64].

Trong dân gian đã Open những bài vè, bài ca miêu tả sự nặng nề của chính sách lao dịch, ví dụ bài ” Tố khuất khúc ” của dân Sơn Nam Hạ có câu :

Binh tài hai việc đã xong,
Lại còn lực dịch thổ công bao giờ.
Một năm ba bận công trình,
Hỏi rằng mọt sắt dân tình biết bao…[64]

Luật pháp

Cờ hiệu cá nhân cắm trên ô tô của Hoàng đế Bảo Đại.
Lúc đầu, nhà Nguyễn chưa có một bộ luật rõ ràng, cụ thể. Vua Gia Long chỉ mới lệnh cho những quan tìm hiểu thêm bộ luật Hồng Đức để rồi từ đó tạm đặt ra 15 điều luật quan trọng nhất. [ 65 ] Năm 1811, theo lệnh của Gia Long, tổng trấn Bắc Thành là Nguyễn Văn Thành đã chủ trì biên soạn một bộ luật mới và đến năm 1815 thì nó đã được vua Gia Long phát hành với tên Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là luật Gia Long. Bộ luật Gia Long gồm 398 điều chia làm 7 chương và chép trong một bộ sách gồm 22 cuốn, được in phát ra khắp mọi nơi. Theo lời tựa, bộ luật ấy hình thành do tìm hiểu thêm luật Hồng Đức và luật nhà Thanh, nhưng kỳ thực là chép lại gần như nguyên vẹn luật của nhà Thanh và chỉ đổi khác không ít. Chương ” Hình luật ” chiếm tỉ lệ lớn, đến 166 điều trong khi những chương khác như ” Hộ luật ” chỉ có 66 điều còn ” Công luật ” chỉ có 10 điều. Trong bộ luật có 1 số ít điều luật khá nghiêm khắc, nhất là về những tội phản nghịch, tội tuyên truyền ” yêu ngôn, yêu thư “. [ 65 ] Tuy nhiên, bộ luật cũng tôn vinh việc chống tham nhũng và đặt ra nhiều điều luật nghiêm khắc để trừng trị du lịch thăm quan. Tất nhiên, đến những đời vua sau Gia Long, bộ luật này cũng được chỉnh sửa và nâng cấp cải tiến nhiều, nhất là dưới thời Minh Mạng. [ 65 ]

Ngoại giao

Với những nước lân bang

Cũng như các triều đại trước, nước đầu tiên mà Gia Long tiến hành ngoại giao là Trung Quốc. Tháng 5 năm 1802, sau khi lên ngôi vua, Gia Long cho một đoàn sứ giả đem đồ cống sang Quảng Đông cầu phong triều đình Trung quốc. Dẫn đầu đoàn sứ giả là Trịnh Hoài Đức chánh sứ, Ngô Nhân Tĩnh và Hoàng Ngọc Uẩn là phó sứ. Đoàn sứ giả sang Quảng Tây, quan lại nhà Thanh ở đây nhận chuyển đồ cống lên Bắc Kinh, còn giữ đoàn sứ ở lại Quảng Tây chờ lệnh triều đình có cho sứ giả lên Bắc Kinh triều yết hay không. Sứ đoàn này chưa hồi hương thì cuối năm đó vua Gia Long tiếp tục cử Binh bộ Thượng thư là Lê Quang Định sang cầu phong vua Gia Khánh nhà Thanh đổi quốc hiệu là Nam Việt.[66] Sau những tranh luận về tên gọi, vì nhà Thanh ngại nhầm lẫn với nước Nam Việt xưa nằm ở Lưỡng Quảng và cuối cùng đồng ý đảo ngược lại thành Việt Nam, vua Thanh cho Tổng đốc Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang làm lễ tấn phong cho Gia Long là Việt Nam quốc vương, ấn định thể lệ tiến cống hai năm một lần và cứ bốn năm một lần Việt Nam sẽ phái sứ bộ sang làm lễ triều kính.[67]

Ngoài Trung Quốc, nhà Nguyễn còn qua lại với Xiêm La. Dù có xung đột từ thời kỳ chúa Nguyễn trước đó, nhưng đến khi Gia Long tị nạn ở Xiêm cho đến lúc lên ngôi, việc tiếp xúc giữa triều Gia Long và Xiêm La vẫn giữ được sự hòa hảo. Từ năm 1802 trở đi hai bên vẫn có sứ bộ qua lại trao đổi thân thiện và tặng phẩm .Tại Ai Lao, Việt và Xiêm cùng đặt tác động ảnh hưởng, Quốc vương Ai Lao xin thần phục cả Việt lẫn Xiêm. Dân vùng Cam Lộ, dân ở những vùng cao nguyên hai tỉnh Thanh Nghệ, người Thượng ( tức người Rhadé ) ở những nước Thủy Xá và Hỏa Xá cũng có cống phẩm đến để tỏ lòng tuân theo chính quyền sở tại của triều Nguyễn. [ 68 ] Thời vua Minh Mạng, nhiều xứ ở Ai Lao xin thuộc quyền bảo lãnh của Nước Ta. Các vùng nay là Sầm Nứa, Trấn Ninh, Cam Môn và Savannakhet giáp với những tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, đều xin làm nội thuộc và trở thành những châu, phủ của Nước Ta. [ 69 ]Còn với Chân Lạp, khi vua Gia Long lên ngôi, nước Cao Miên tuy mất Thủy Chân Lạp cho người Việt nhưng vẫn phải chịu thần phục. Thời Minh Mạng, sau khi phá được quân Xiêm, tướng Trương Minh Giảng và tham tán Lê Đại Cương lập đồn đóng quân ở gần Nam Vang để bảo lãnh Chân Lạp. [ 69 ]

Với phương Tây

Năm 1803, Anh Quốc sai sứ là Robert sang xin cho mở shop kinh doanh ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua Gia Long không nhận đồ, và cũng không cho mở shop. Sau người Anh còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng vẫn bị phủ nhận. Khi cuộc chiến tranh kết thúc, những ông Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, Gia Long cho mỗi người 50 lính hầu và khi chầu thì không cần lạy Hoàng đế. Năm 1817, chính phủ nước nhà Pháp phái tới Nước Ta chiếc tàu Cybèle để thăm dò bang giao. Thuyền trưởng là Achille De Kergariou nói rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Thành Phố Đà Nẵng và hòn đảo Côn Lôn. Vua Gia Long sai quan ra vấn đáp rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa. [ 70 ]Tuy nhiên, sự bành trướng của Châu Âu ở Khu vực Đông Nam Á khiến Gia Long lo lắng, nhất là sau khi nước Anh chiếm được Nước Singapore. Nhà vua thấy rằng cần phải giao hảo với người Tây phương nhưng không hề biệt đãi một vương quốc đặc biệt quan trọng nào. Năm 1819, John White, một thương gia Hoa Kỳ tới Gia Định và được hứa hẹn sẽ dành cho mọi sự thuận tiện khi kinh doanh ở Nước Ta. Vua Minh Mạng không có tình cảm với người Pháp như thái độ chung của người Á Đông lúc đó, coi người Âu Châu là bọn man di, là quân xâm lược. [ 71 ] Ngoài ra ông cũng không thích cả Công giáo của châu Âu. Trong thời kỳ Minh Mạng nắm quyền, Fan Hâm mộ Công giáo bị đàn áp kinh khủng và những giáo sĩ quốc tế đã so sánh ông với nhà vua Nero của Đế quốc La Mã – một nhà vua từng tàn sát hàng loạt giáo dân Công giáo. Với những người Pháp đã từng giúp vua Gia Long, Minh Mạng tỏ thái độ lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại Nước Ta không được trọng dụng nữa. Minh Mạng cho Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước giữa hai chính phủ nước nhà, người Nước Ta vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ, ông chỉ thỏa thuận hợp tác mua và bán với người Pháp nhưng không đồng ý thiết kế xây dựng đặt quan hệ ngoại giao chính thức với nước Pháp, quốc thư của Pháp xin cho ông Chaigneau làm Lãnh sự Pháp ở Nước Ta không được nhà vua đếm xỉa đến. Cũng theo đường lối của hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Tự Đức khước từ mọi việc tiếp xúc với những quốc tế, dầu việc tiếp xúc chỉ nhằm mục đích ship hàng thương mại. Năm 1850 có tàu của nước Mỹ vào cửa Hàn có quốc thư xin thông thương nhưng không được đảm nhiệm. [ 72 ]Từ năm 1855 những nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha nhiều lần có tàu vào cửa Hàn, cửa Thị Nại và Quảng Yên xin thông thương cũng không được. Sau khi Gia Định bị người Pháp chiếm, việc ngoại giao giữa triều đình với những nước phương Tây khó khăn vất vả, Tự Đức mới biến hóa chủ trương, đặt ra Bình Chuẩn Ty để lo kinh doanh và Thương Bạc Viện để thanh toán giao dịch với người quốc tế nhưng không có hiệu quả vì những người được ủy thác vào những việc này không được học gì về ngoại giao. [ 71 ] [ 73 ]

Kinh tế

Thương mại

Đồng tiền đúc ở thời Gia Long. Hai mặt trước sau với bốn chữ “Gia Long thông bảo” (嘉隆通寶) và “Thất phân” (七分).
Thương mại Nước Ta sau khi quốc gia được thống nhất vẫn không tăng trưởng lắm, [ 74 ] tổ chức triển khai thương mại của người Việt sơ sài, trong khoanh vùng phạm vi mái ấm gia đình. Nếu có những hội buôn lớn thì cũng chỉ là những phường họp vài thương gia hùn vốn với nhau để kinh doanh thương mại rồi chia tiền ngay, không link lại thành những hội buôn làm ăn lâu bền hơn. Nhiều người Nước Ta dùng tiền của để mua ruộng đất chứ không góp vốn đầu tư kinh doanh thương mại, khuếch trương thương mại hay công nghệ tiên tiến. [ 74 ] Việc kinh doanh ở những chợ quy mô lớn do thương nhân Hoa kiều chi phối, dù những người này chỉ là thiểu số. [ 74 ] Các loại sản phẩm tiêu dùng họ kinh doanh thương mại gồm có : mua thổ sản như gạo, lúa, bắp, đường, hạt tiêu … và bán và nhập cảng trà, thuốc Bắc, vải, đồ đồng, giấy. Trong vùng nông thôn, hoạt động giải trí thương mại cũng chỉ nhằm mục đích trao đổi nông sản và hàng tiểu thủ công ở những chợ. Ở đó, ngoài những shop tạp hóa quy mô nhỏ hay những cửa tiệm bán thuốc Bắc, còn có những nông dân bán thổ sản và nông sản địa phương và một số ít thương nhân nhỏ bán vải vóc, hàng xén, cau thuốc, đi rong từ chợ này sang chợ khác. Theo sử gia Trần Trọng Kim, người Nước Ta chỉ quanh quẩn trong nước, kinh doanh những sản phẩm & hàng hóa lặt vặt, nên bao nhiêu mối lợi lớn về tay người ngoài mất. [ 75 ]Nhìn chung, Gia Long không chăm sóc đến thương mại. [ 76 ] Ông đã nhiều lần phủ nhận người Anh khi họ đến xin được mua và bán, ngay cả người Pháp khi đến mua và bán cũng không được thuận tiện mấy, [ 77 ] ông không được cho phép người phương Tây lập phố buôn trên chủ quyền lãnh thổ Nước Ta, triều Nguyễn dưới thời ông không khuyến khích cũng như không chào mời những thuyền buôn phương Tây. [ 78 ] Triều đình bấy giờ không có ý đóng cửa với phương Tây nhưng theo cách nhìn của hàng ngũ Nho sĩ ở Nước Ta, việc giao thương mua bán với phương Tây là không đáng đáng tin cậy ; cũng đồng thời với đó là sự lo lắng sự xâm lược bằng quân sự chiến lược và truyền giáo của họ [ 79 ] đã dẫn đến chủ trương như trên .Ngoài 1 số ít TT thương mại thành thị được tăng trưởng ở những thành phố và cảng biển chính, phần nhiều hoạt động giải trí mua và bán vẫn diễn ra trên những con sông. Triều đình nắm giữ độc quyền thương mại ở những mẫu sản phẩm có giá trị cao như ngà voi quý hiếm, sừng nai, bạch đậu khấu, vàng … [ 80 ] Mức thuế mua và bán cao, việc cấp giấy phép khó khăn vất vả trong việc xuất khẩu gạo, muối, và sắt kẽm kim loại cũng gây ngưng trệ sự tăng trưởng của thương mại. [ 81 ] Ngoại thương bị hạn chế, dân chúng bị cấm giao thương mua bán bằng đường thủy, triều đình cấm xuất khẩu những loại gỗ quý và đánh thuế cảng, thuế xuất khẩu cao ; quan hệ thương mại quan trọng với Trung Quốc nằm trong tay những thương gia người Hoa và quan lại, trong khi những thương gia người Việt thì bị hạn chế ở mảng kinh doanh trong nước. [ 80 ]Triều đình đã tổ chức triển khai nhiều chuyến đi công cán đến những nước trong khu vực để thực thi thanh toán giao dịch kinh doanh. Năm 1824, Minh Mạng đã sai người đi công cán ở Hạ Châu ( Nước Singapore ) và Giang Lưu Ba ( Indonesia ). Năm 1825, vua Minh Mạng phái người sang Hạ Châu mua vải và đồ thủy tinh. Sau đó, mỗi năm đều có quan viên được phái đi tới những TT mậu dịch của người Âu ở khắp Khu vực Đông Nam Á. Từ 1831 – 1832 trở đi, những chuyến công cán càng lúc càng nhiều, điểm đến cũng khá phong phú : Hạ Châu, Lữ Tống ( Luzon – Philippines ), hòn đảo Borneo, Quảng Đông, Giang Lưu Ba, … Trong khoảng chừng 1835 – 1840 đã có 21 chiếc được cử đi. [ 74 ] Hàng bán ra đa phần là gạo, đường, lâm thổ sản quý, hàng mua về là len dạ và vũ khí, đạn dược. Các hoạt động giải trí này gần như là độc quyền của triều đình dù tư nhân không bị cấm. Dù vậy, nhiều thương nhân cũng tận dụng những chuyến kinh doanh này để buôn lậu gạo và thổ sản sang Hạ Châu hay Quảng Châu Trung Quốc. [ 82 ]Hàng năm, thuyền buôn Trung Hoa thường đi lại giữa Nước Ta và Nước Singapore. Thương nhân người Hoa thường lén chở gạo đi và đem thuốc phiện về. Trong những năm 1820 – 1830, thanh toán giao dịch với Nước Singapore rất hạn chế. Nguyên nhân do sản phẩm & hàng hóa của Nước Ta tương thích với thị trường Nước Trung Hoa hơn. [ 74 ] Khi người Pháp sắp chiếm hết Nam Kỳ, những bản lược kê kinh tế tài chính cho thấy quan thuế hàng năm tương tự 3.000.000 france vàng trên tổng ngân sách 40.000.000 mà những quan viên đã giữ lại gấp đôi số tiền thuế kia, như vậy số tiền thu được vượt quá số tiền chuyển về triều đình rất nhiều. Từ thời Thiệu Trị, do xung đột với phương Tây từ nguyên do tôn giáo, quan hệ kinh doanh với những nước này bị tổn hại. Năm 1850, Tự Đức không phái thuyền đi buôn ở Hạ Châu nữa. Triều đình cũng tìm cách cản trở dân thường kinh doanh với người Tây nên sau cuối, thương gia ngoại bang đa phần là Hoa kiều, Xiêm và Mã Lai, trong đó người Hoa chiếm tỷ suất lớn nhất. [ 74 ]

Thủ công nghiệp

Áo hoàng bào bằng vóc được thêu thùa tinh xảo
Thủ công nghiệp Nhà nước thời Nguyễn chế tạo tổng thể những vật dụng cho hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc tiền, … [ 83 ]

Nhà Nguyễn cũng tập trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ công Nhà nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long.[83] Nhà Nguyễn cũng lập các Ti trông coi các ngành thủ công, như ti Vũ khố chế tạo quản lý nhiều ngành thủ công khác nhau, gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng,… Ti Thuyền chịu trách nhiệm về các loại thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trên toàn quốc.[83] Ngoài ra còn có các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác hoả dược.[84]

Phần lớn nhân lực trong các xưởng thủ công Nhà nước là do triều đình trưng dụng thợ khéo trong các ngành như khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa… tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho triều đình. Đối với nghề đóng tàu, năm 1820 sĩ quan người Mỹ, John White đã nhận xét: ” Người Việt Nam quả là những người đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác.” Ngoài các thuyền gỗ, người thợ thủ công Việt Nam còn đóng cả các loại tàu lớn bọc đồng.[85]

Ngoài ra họ đã sáng tạo được nhiều máy móc tiên tiến và phát triển và có chất lượng vào thời đó, ví dụ những máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng … và cả máy hơi nước. [ 85 ] Trong ngành khai mỏ, đến nửa đầu thế kỷ 19, triều đình đã quản trị 139 mỏ, và năm 1833 có 3.122 nhân công trong những mỏ Nhà nước, [ 85 ] [ 86 ] tuy nhiên, phương pháp khai mỏ thời bấy giờ vẫn kém tăng trưởng so với quốc tế .

Nông nghiệp

Triều Nguyễn có những chủ trương khuyễn mãi thêm để tăng trưởng nông nghiệp, như thể cấm mua và bán ruộng đất công, lập kho Thường bình, Sở Tịch điền, Sở Diễn canh, kho Bình thiếu, Sở Đồn điền, Đàn Xã tắc, … [ 87 ] Năm 1828, Minh Mạng giao cho bộ Lễ soạn thảo chu đáo những điển lễ Phục hồi lại nghi lễ Tịch điền và làm thành luật lệ vĩnh viễn, cũng như lao lý rất tráng lệ, đơn cử. [ 87 ] [ 88 ]Về yếu tố ruộng đất, ngay khi mới lên ngôi, Gia Long đã phải ra lệnh cấm bán ruộng đất công và pháp luật ngặt nghèo việc cầm đồ loại công điền công thổ này để bảo vệ đất cày cho mọi người nông dân. [ 89 ] Trải qua nội chiến, nhân dân lại gặp mất mùa liên tục. Triều đình thường phải giảm thuế, miễn thuế và phát chẩn. Thời Minh Mạng định lại phép quân cấp ruộng khẩu phần, quan lại, binh lính, công tượng ( thợ làm quan xưởng ) cùng những hạng dân đinh, không kể phẩm trật cao thấp đều được hưởng một phần khẩu phần nhưng quan lại, cường hào cũng giành được những phần tốt hơn. Người già, người tàn tật thì được nửa phần. Cô nhi, quả phụ được 1/3. [ 90 ]Tại miền Nam, nhà Nguyễn vẫn liên tục việc khai hoang và phục hóa, từ thời những chúa Nguyễn để lại như việc khẩn hoang, lan rộng ra, tăng trưởng nông nghiệp. Ở Nam Kỳ, người dân đã tự do đến khẩn hoang với tư cách cá thể hoặc tập thể dưới sự trợ giúp của triều đình. [ 91 ] Hai vị quan tổ chức triển khai khẩn hoang nổi tiếng nhất là Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phương ; trong đó Nguyễn Công Trứ nổi lên vì là tác giả của ba chủ trương khẩn hoang lớn : đồn điền, doanh điền và khai khẩn ruộng hoang. [ 92 ] Đồn điền là chủ trương hầu hết dựa vào việc mộ dân nghèo, đi cùng với tội phạm, binh lính để thực thi việc khai khẩn đất hoang. Trong thời hạn khẩn hoang số dân này sẽ được quản trị theo cung cách đồn điền ; sau từ 6-10 năm để đời sống dân cư không thay đổi sẽ chuyển sang hình thức làng xã. Đồn điền Open nhiều nhất ở vùng Gia Định. [ 92 ] Đợt lập đồn điền lớn nhất do Kinh lược sứ Nam Kì là Nguyễn Tri Phương tổ chức triển khai vào năm 1853 – 1854, lập được 21 cơ, 124 ấp phân phối ở cả lục tỉnh. [ 93 ] Doanh điền là hình thức khai hoang có sự phối hợp giữa triều đình và nhân dân, thực thi di dân để lập ấp mới. Hình thức này khởi đầu được triển khai từ năm 1828 dưới thời vua Minh Mạng theo đề xuất của Tham tán quân vụ Bắc thành Nguyễn Công Trứ. Theo đó, triều đình sẽ bỏ vốn khởi đầu và cử ra một quan chức sẽ dứng ra chiêu mộ và chỉ huy dân chúng đưa đi khai hoang [ 94 ] Chính sách đồn điền và doanh điền được triều đình kèm theo một loạt luật lệ thưởng phạt phân minh để khai thác triệt để đất đã vỡ hoang và ngăn thực trạng bỏ đất nhưng cũng không dứt hẳn được hiện tượng kỳ lạ ruộng hoang. [ 95 ]

Ngoài ra, triều đình nhà Nguyễn còn khuyến khích nhân dân tự do khai hoang kết hợp phục hóa. Việc đinh điền cũng có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn. Ruộng đất ở Nam Việt thời vua Minh Mạng được đo đạc lại, tính ra được 630.075 mẫu. Tổng số đinh toàn quốc là 970.516 suất và 4.063.892 mẫu ruộng đất.[96] Triều đình nhà Nguyễn dành cho việc khai hoang, phục hóa rất nhiều sự quan tâm, họ đã cho tiến hành nhiều chính sách khai khẩn hoang khác nhau và đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp. Diện tích ruộng đất thực trưng tăng lên nhiều: năm 1847 là 4.273.013 mẫu.[97] Tuy nói trên toàn diện, đất công điền không quá 1/5 diện tích canh tác, nhưng phần đất còn lại được phân phối giữa các nông dân mà đa số chỉ làm chủ tới 5 mẫu là nhiều. Hạng người có 100 mẫu trở lên thì rất ít, mỗi tỉnh có nhiều nhất là 5, 3 người.[98]

Văn hóa và giáo dục

Giáo dục đào tạo

Lễ xướng danh trường thi Hương tại Nam Định năm Mậu Tý (1888)
Vua Gia Long rất tôn vinh Nho học, cho lập Văn Miếu ở những doanh, những trấn thờ đức Khổng Tử và lập Quốc Tử Giám năm 1803 ở Kinh thành Huế để dạy cho những quan và những sĩ tử, mở khoa thi Hương lấy những người có học, có hạnh ra làm quan. Cũng trong năm này, Gia Long cũng cho phát hành hai đạo dụ về việc mở những trường ở những tỉnh, ấn định nhân viên cấp dưới giáo giới và chương trình học chế đồng thời tái lập lại những khoa thi ở những trấn. Ở mỗi trấn có một quan Đốc Học, một phó Đốc Học hay Trợ Giáo. Cứ tháng 10 hàng năm triều đình mở một kỳ thi. Theo thông lệ cứ ba năm triều đình mở khoa thi Hương ở những địa phương. [ 99 ] Những người trúng cao ở khoa thi Hương gọi là cử nhân, trúng thấp gọi là tú tài. Năm sau ở Kinh đô mở khoa thi Hội tại bộ Lễ, những cử nhân năm trước khi ứng thí, nếu trúng cách thì được liên tục thi Đình ở trong điện nhà vua để lấy những bậc Tiến sĩ. [ 99 ]Trong dân chúng, việc học tập có đặc thù tự do hơn. Bất kỳ người nào có học lực tương đối cũng hoàn toàn có thể mở trường tư thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba trường tư thục, hoặc ở nhà thầy, hoặc ở nhà người hào phú nuôi thầy cho con học và cho con những nhà lân cận đến học. Theo ông Trần Trọng Kim thì người Nước Ta vốn chuộng sự học, cho nên người đi học cũng nhiều. [ 100 ] Dù vậy, việc học tập càng lúc càng thoái hóa do nội dung học chỉ tập trung chuyên sâu vào thơ phú và những tác phẩm cổ, không vận dụng được gì nhiều trong thực tiễn. Nhiều người học chỉ để đi thi, mong được làm quan. Trần Trọng Kim cho rằng :

Bao nhiêu công phu của người đi học chú trọng vào sự học cho nhớ những sách Tứ Thư, Ngũ Kinh cùng những lời thể chú của tiền nho trong những sách ấy và học thêm mấy bộ sử nước Tàu. Còn sự luyện tập hàng ngày, thì cốt tập cho thạo thuộc các lề lối ở chỗ khoa trường là: kinh nghĩa, tứ lục, thi phú, văn sách. Ấy là dùng hư văn mà xét tài thực dụng, đem sự hoa mỹ làm mực thước đo tài kinh luân. Bởi vậy ai hay kinh nghĩa đã nghĩ mình hơn người, ai tài thi phú đã tưởng mình giỏi nghề trị nước. Việc đời thì tối tăm mờ mịt mà lại tự phụ và kiêu căng, cho thiên hạ như rơm rác, coi mình như thần thánh.

Sự học của mình đã hư hỏng như thế, những hủ tục lại ăn sâu vào trí não, thành ra một thứ cố tật không sao chữa được…Đại khái, cái trình độ của bọn sĩ phu ở nước ta lúc bấy giờ là thế, cho nên vận nước suy đến nơi mà hồn người vẫn mê muội ở chỗ mơ màng mộng mị. Bọn sĩ phu là người có học, làm tai làm mắt cho mọi người mà còn kém cỏi như thế, thì bảo dân gian khôn ngoan làm sao được

— [100]

Ống quyển, ống bút, nghiên mực, hòm sách- những “đồ nghề” của một sĩ tử thời Nguyễn
Thời vua Minh Mạng, ông muốn canh tân việc học tập thi tuyển nhưng lại không biết thực thi ra làm sao bởi triều thần của ông phần lớn chỉ là những hủ nho lỗi thời, không trợ giúp được nhà vua một kế hoạch nào cho quốc phú dân cường, ông nói rằng :

Lâu nay cái học khoa cử làm cho người ta sai lầm, Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay những văn cử-nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đă quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại[101]

Văn học

Văn học nhà Nguyễn hoàn toàn có thể chia làm những thời kỳ như sau : thời Nguyễn sơ, thời kỳ nhà Nguyễn còn độc lập và thời kỳ nhà Nguyễn thuộc Pháp. [ 102 ] Thời Nguyễn sơ là thời kỳ của những nhà thơ thuộc hai nguồn gốc chính là quan của vua Gia Long và những cựu thần nhà Hậu Lê bất phục nhà Nguyễn. Tiêu biểu cho thời kỳ này là những tác giả : Phạm Quy Thích, Nguyễn Du, Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định. [ 103 ] Nội dung tiêu biểu vượt trội cho thời kỳ này là nói về niềm tiếc nhớ Lê triều cũ và một chủ quyền lãnh thổ văn chương Nước Ta mới hình thành ở phương Nam. Thời nhà Nguyễn độc lập là thời của những nhà thơ thuộc đủ mọi xuất thân trong đó có những vua như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, và những thành viên hoàng tộc như Tùng Thiện Vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm. Các nho sĩ thì gồm có Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Hà Tôn Quyền, Trương Quốc Dụng, Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ. [ 104 ] Hai kiểu thơ hầu hết của thời kỳ này là thơ ngự chế của những vị vua và những thi tập của nho sĩ [ 104 ]. Thời nhà Nguyễn thuộc Pháp là thời kỳ tác động ảnh hưởng của thực trạng lịch sử vẻ vang đương thời ảnh hưởng tác động rất lớn vào văn chương, những nhà thơ sáng tác nhiều về cảm tưởng của họ so với quy trình Pháp chiếm Nước Ta. [ 105 ] Tác giả tiêu biểu vượt trội thời kỳ này gồm Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Thông, Nguyễn Khuyến, Dương Lâm, Nguyễn Thượng Hiền. [ 106 ] [ 107 ]Thời kỳ nhà Nguyễn, văn học tăng trưởng trong cả Hán văn, lẫn một cách can đảm và mạnh mẽ ở chữ Nôm với nhiều thành tựu lớn, trong đó tác phẩm chữ Nôm tiêu biểu vượt trội nhất là Truyện Kiều và Hoa Tiên. Hai thể thơ được dùng phổ biết ở thời kỳ này là lục bát và lục bát gián cách, sử dụng một thứ tiếng Việt mới có một trình độ rất cao. [ 108 ] Ở miền Nam Nước Ta, thành hình một chủ quyền lãnh thổ văn chương mới với nhiều nét độc lạ riêng so với những vùng cũ [ 108 ]. Về nội dung, ngoài những nội dung văn chương mang đậm tư tưởng Nho giáo truyền thống cuội nguồn thì số phận con người và phụ nữ cũng được đề cập đến. [ 108 ]

Khoa học và kỹ thuật

Sử học

Phu Văn Lâu, nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức
Ngay từ cuối thế kỷ XVIII, Sử học là một trong những ngành khoa học rất tăng trưởng. Sang đầu thế kỷ XIX, dưới thời nhà Nguyễn, ngành này lại càng tăng trưởng hơn, hoàn toàn có thể nói đó là ngành tăng trưởng nhất thời vương triều Nguyễn. Đặc biệt khi cơ quan đảm nhiệm sử học là Quốc sử quán sinh ra năm 1820 dưới thời vua Minh Mạng với trách nhiệm tích lũy những bộ sử xưa, in lại Quốc sử thời Lê và biên soạn những bộ sử mới. Quốc sử quán phải nói là được tổ chức triển khai kỷ cương, hoạt động giải trí một cách đầy hiệu suất cao. Vương triều Nguyễn đã cho lập những kho tàng tàng trữ những sáng tác từ cổ chí kim. [ 109 ]Sử học nhà Nguyễn có những thành tựu sau :
Năm 1942, Giám đốc Nhà tàng trữ Đông Dương Paul Boudet cho biết rằng những tài liệu trước thế kỷ XIX ( thời Nguyễn ) chỉ còn lưu lại được khoảng chừng 20 bản. Từ triều vua Minh Mạng, công tác làm việc tàng trữ mới được chăm sóc. Cũng năm 1942, số lượng địa bạ ở Tàng thư lâu giữ được có tới 12.000 quyển. [ 113 ]

Địa lý và Lịch sử

Thời Nguyễn cũng là thời có nhiều tác phẩm địa lý học lớn như bộ Hoàng Việt Nhất thống dư địa chí do Thượng thư Lê Quang Định soạn theo lời của vua Gia Long. Sau đó cơ quan Quốc sử quán triều Nguyễn cũng soạn tiếp nhiều công trình khác gồm Đại Nam nhất thống toàn đồ, Đại Nam nhất thống chí. Ngoài ra, còn có nhiều tác phẩm có giá trị cao khác ngoài Quốc sử quán như Bắc Thành địa dư chí và Hoàng Việt dư địa chí của Phan Huy Chú; Phương Đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu;[112] Đại Việt cổ kim duyên cách địa chí khảo và Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức; Nam Hà tiệp lục của Quốc sử quán,…[111] Ngoài ra thời Minh Mạng cũng xuất hiện rất nhiều bản đồ về các địa phương của nước Đại Nam thời kỳ đó.

Nhìn chung, theo nhận xét của Dương Quảng Hàm thì tuy có nhiều giá trị nhưng do vẫn còn thiếu một giải pháp điều tra và nghiên cứu khoa học tốt nên những tác phẩm về sử học và địa lý thời kỳ này vẫn có nhiều khuyết điểm. Dù vậy, những triều đại trước cũng không khá hơn nhà Nguyễn trong việc này. [ 114 ]
Tranh vẽ Ngọ Môn Hoàng Thành Huế

Kỹ thuật công nghệ tiên tiến

Từ những cuộc nội chiến ở Đại Việt trước, kỹ thuật công nghệ tiên tiến của phương Tây đã được những vua chúa đem vào Nước Ta rất nhiều đặc biệt quan trọng trong nghành nghề dịch vụ quân sự chiến lược. Thời nhà Nguyễn vẫn thừa kế những thứ đã gia nhập ấy, nhiều khu công trình được kiến thiết xây dựng theo kiểu kiến trúc Vauban của phương Tây như thành Bát Quái, kinh thành Huế, thành TP. Hà Nội … Thời Gia Long đã từng cho đóng một loại thuyền lớn bọc đồng để tuần tra biển. [ 115 ]

Sang đến thời Minh Mạng, nhiều máy móc mang tính mới mẻ đã được chế tạo gồm: máy cưa chạy bằng sức trâu và sức nước, máy xẻ gỗ chạy bằng sức trâu.[116] Cụ thể là, năm 1834, Nguyễn Viết Túy dưới sự đồng ý của vua Minh Mạng đã chế tạo ra chiếc máy nghiền thuốc súng bằng sức nước mang tên Thủy hỏa ký tế. Sau đó những năm 1837-38, theo mẫu của phương Tây, thợ thủ công Nhà nước đã chế tạo được máy cưa văn gỗ, xẻ gỗ bằng sức nước, máy hút nước tưới ruộng,… và còn có cả xe cứu hỏa. Đặc biệt là năm 1839, dựa theo các kiểu phương Tây, các đốc công Hoàng Văn Lịch, Vũ Huy Trịnh cùng các thợ của ông đã đóng thành công chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên, được vua Minh Mạng hết sức khen ngợi. Năm sau, Minh Mạng lại chỉ đạo cho họ đóng một chiếc kiểu mới tân tiến hơn và sửa chữa một chiếc bị hỏng. Điều đáng tiếc là sau đó mọi việc dường như bị đình lại.[85] Thời Tự Đức, nhiều sách kỹ thuật phương Tây được dịch sang tiếng Hán như Bác Vật tân biên, Khai Môi yếu pháp, Hàng hải Kim châm.[116] Nhưng một điều đáng tiếc là những tiến bộ này vẫn chưa kịp tác động vào quá trình phát triển của xã hội Việt Nam. Đến giữa thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn là một quốc gia với nền sản xuất nông nghiệp chậm tiến so với thế giới phương Tây.[116]

Kiến trúc

Sơ đồ Thành Bát Quái Sài Gòn do Trương Vĩnh Ký vẽ, Nguyễn Đình Đầu lược dịch và chú giải.
Nhà Nguyễn là triều đại có nhiều góp phần trong lịch sử vẻ vang Nước Ta, đặc biệt quan trọng là một kho tàng kiến trúc đồ sộ, mà tiêu biểu vượt trội là quần thể kinh thành Huế và nhiều khu công trình quân sự chiến lược khác [ 117 ]Kinh thành Huế nằm ở bờ Bắc sông Hương với tổng diện tích quy hoạnh hơn 500 ha và 3 vòng thành bảo vệ. Kinh thành do vua Gia Long mở màn cho thiết kế xây dựng năm 1805 và được Minh Mạng liên tục triển khai xong năm 1832 theo kiến trúc của phương Tây phối hợp kiến trúc thành quách phương Đông. Trải qua gần 200 năm khu kinh thành lúc bấy giờ còn phần nhiều nguyên vẹn với gần 140 khu công trình thiết kế xây dựng lớn nhỏ. [ 117 ] Kiến trúc cung đình Huế đã tiếp thu và thừa kế kiến trúc truyền thống cuội nguồn thời Lý, Trần, Lê đồng thời tiếp thu tinh hoa của Mỹ thuật Nước Trung Hoa nhưng đã được Việt Nam hóa. Huế cũng đã được hiện đại hóa bởi những công trình sư người Pháp Giao hàng dưới thời vua Gia Long. Khi thiết kế xây dựng mạng lưới hệ thống thành quách và hoàng cung, những nhà kiến trúc dưới sự chỉ huy của nhà vua đã sắp xếp trục chính của khu công trình theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Yếu tố Ngũ hành quan trọng trong bố cục tổng quan mặt phẳng của kiến trúc cung thành tương ứng với ngũ phương. [ 118 ]Thành Gia Định là một khu công trình phòng thủ quân sự chiến lược, được Nguyễn Phúc Ánh ra lệnh thiết kế xây dựng tại làng Tân Khai, huyện Tỉnh Bình Dương, đất Gia Định, sau này là Hồ Chí Minh, kể từ ngày 4 tháng 2 năm 1790 theo kiến trúc hỗn hợp Đông-Tây, dựa trên một bản thiết kế của một người Pháp là Olivier de Puymanel ( Việt danh là Ông Tín ). Thành được xây có 8 cạnh nên gọi là ” Bát Quái “. Thành còn có tên khác là ” Thành Quy “. Thành có 8 cửa, phía nam là cửa Càn Nguyên và cửa Li Minh, phía bắc là cửa Khôn Hậu và cửa Khảm Hiền, phía đông là cửa Chấn Hanh và cửa Cấm Chí, phía tây là cửa Tốn Thuận và cửa Đoài Duyệt. Thời Minh Mạng đổi tên những cửa : phía nam là cửa Gia Định và cửa Phiên An, phía bắc là cửa Củng Thần và cửa Vọng Thuyết, phía đông là cửa Phục Viễn và cửa Hoài Lai, phía tây là cửa Tĩnh Biên và cửa Tuyên Hóa. Ngày 18 tháng 3 năm 1859, quân Pháp đốt cháy kho tàng, tàn phá thành TP HCM và rút ra để tránh quân triều đình nhà Nguyễn tấn công đánh chiếm lại thành. Dấu tích duy nhất thời nay còn lại là bức tranh vẽ ảnh thực dân Pháp tấn công thành và những tàn tích dọc đường Đinh Tiên Hoàng về phía gần xưởng Ba Son. [ 119 ]

Các trào lưu khởi nghĩa chống triều đình

Nhà Nguyễn cũng là triều đại tận mắt chứng kiến những cuộc nổi dậy của nông dân cũng như những những tầng lớp khác bùng nổ dữ đội, nhất là ở Bắc Hà. Các nhà sử học tính rằng số lượng những cuộc nổi dậy nửa đầu thế kỷ 19 còn nhiều hơn toàn thế kỷ 18. Từ năm 1802 cho tới năm 1862, tại Bắc Hà có từ 350 cho tới 400 cuộc nổi dậy của nông dân nổ ra. Trong số đó có 50 cuộc diễn ra dưới thời Gia Long từ 1802 – 1820, 254 cuộc dưới thời Minh Mạng ( 1820 – 1840 ), 58 cuộc dưới thời Thiệu Trị ( 1840 – 1847 ) và 40 cuộc nổi dậy dưới thời Tự Đức ( 1847 – 1862 ). Dù vậy, trong số này cũng đã tính luôn cả những vụ nổi dậy tương quan tới yếu tố Công giáo, những trào lưu phù Lê diệt Nguyễn của dân Bắc Hà, những toán cướp nổi lên hùng cứ địa phương, những toán tàn quân Thái Bình Thiên Quốc vượt biên giới vào cướp và cả những vụ bạo loạn như của Lê Duy Phụng do thực dân Pháp kích động để rảnh tay lấn chiếm Nước Ta. [ 10 ]Những cuộc nổi dậy ở Bắc Hà dưới thời vua Minh Mạng suốt Trung, Nam, Bắc, kể từ năm 1822 theo sử gia Phạm Văn Sơn đã do nhiều nguyên do :

  • Về phía ngoại bang, nước Xiêm La vẫn giữ thái độ hằn học về vấn đề Chân Lạp nên ngoài mặt tuy êm dịu nhưng bên trong Xiêm La vẫn tìm cơ hội để quấy rối Việt Nam.[96]
  • Ngoài Bắc, một phần nhân tâm còn luyến tiếc Lê triều, vẫn chờ dịp nổi lên chống lại nhà Nguyễn và để khôi phục lại dòng họ Lê.[96]
  • Bọn quan lại hay nhũng nhiễu dân chúng, dèm pha nhau, tâng công, nịnh hót mà nhà vua lại thường không minh, nhất là đối với kẻ công thần. Nhiều người trung lương đâm ra chán nản, trái lại phe gian nịnh nẩy nở mỗi ngày một nhiều, nước tất nhiên phải sinh loạn do đó ngoại quốc mới dám nhòm ngó vào.[96]

Nguyên nhân chính làm bùng nổ nhiều cuộc nổi dậy là yếu tố kinh tế tài chính và đời sống khó khăn vất vả của dân cư :

  • Một giáo sĩ người Pháp tên Guérard nhận xét rằng Gia Long đánh thuế quá nặng và bắt dân chúng lao dịch quá nhiều, sự bất công và lộng hành của quan lại làm cho người dân khổ cực. Ông viết: “Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì tăng lên gấp ba”[120]. Việc xây thành Phú Xuân và đào kênh Vĩnh Tế phải huy động hàng vạn dân phu đi lao dịch. Một người Pháp là Borel viết năm 1818 mô tả việc xây thành Phú Xuân (Huế): “Nhà vua sử dụng tất cả nhân lực vào việc xây tòa thành và các công trình công cộng khác. Khi tôi đến Huế, đã có đến 8 vạn người được điều động từ các nơi trong cả nước đang khẩn trương xây dựng một tòa thành rộng lớn bằng gạch… Riêng việc xây bờ thành đã tốn kém những khoản tiền khổng lồ và làm thiệt hàng ngàn nhân mạng vì phải khổ dịch liên tục… Nhà vua [Gia Long] đã vung ra những món tiền lớn và hy sinh tính mạng của hàng ngàn dân chúng vì họ phải làm việc không nghỉ tay trên các tường lũy của kinh thành. Đây quả là một công trình kỳ diệu. Mười vạn người được thường xuyên huy động”[64]
  • Sự tham nhũng của quan lại cũng là một nguyên nhân, như Chaigneau người Pháp đã ghi lại năm 1807: “Dân chúng hết sức khốn khổ, vua và quan lại làm khổ dân một cách kỳ lạ; công lý này tùy thuộc tiền bạc, kẻ giàu có thể đánh đập người nghèo mà không sợ bị trừng phạt gì, vì họ tin chắc nhờ tiền bạc họ sẽ thắng kiện.”[121]
  • Nạn đói thường xuyên đe doạ cuộc sống của người nông dân. Theo lời tâu của Nguyễn Công Trứ vào năm 1833, dân đói đến tỉnh Hải Dương kiếm ăn có tới 27.000 người. Trận bão đổ bộ vào tỉnh Nghệ An 1842 đã làm cho 40.753 ngôi nhà bị đổ, 5.420 người bị chết, cùng với đói kém, mất mùa, lụt lội và bệnh dịch. Trận dịch xảy ra năm 1840, riêng ở Bắc Kì số người chết đã lên tới 67.000.[120]

Các cuộc khởi nghĩa sau cuối đều bị thất bại, nhưng đã khiến cho nhà Nguyễn suy yếu, lâm vào thực trạng không ổn định triền miên. [ 120 ]

Tại Bắc Kỳ

Ngay từ khi mới cầm quyền, nhà Nguyễn đã gặp phải sự chống đối rất là kinh khủng từ nhiều lực lượng xã hội khác nhau. Năm 1803, một số ít tướng lĩnh cũ của nhà Tây Sơn do Nguyễn Văn Tuyết đứng đầu đã nổi dậy ở Kinh Môn, Thành Phố Hải Dương. Sau là cuộc khởi nghĩa của Vũ Đình Lục và Đặng Trần Siêu ở Sơn Nam ( Thượng du Thanh Hóa ), liên tục hoạt động giải trí cho đến năm 1824. Tiếp theo là trào lưu nông dân ở miền xuôi, vùng đồng bằng Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ : Nguyễn Đức Khoa, Tổng Thái, Tú Bích ở Kinh Bắc, Trần Lệ Quyên, Đỗ Hoàng Thân ở Sơn Tây, Nguyễn Thế Chung ở Sơn Nam, Nguyễn Trấn, Lê Hữu Tạo, Ninh Đãng Tạo, Phan Bô ở Nghệ An. [ 122 ]

Một số cuộc nổi dậy lớn kế tiếp là cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành ở Nam Định (1821-27), Lê Duy Lương ở Ninh Bình (1833-34), Nông Văn Vân ở Tuyên Quang (1833-35) và của Cao Bá Quát (1854-56) ở Hà Nội, đặc biệt là phong trào bạo loạn do Lê Duy Phụng dẫn đầu (1861-1865) trên khắp lãnh thổ Bắc Kỳ. Ngoài ra vụ nổi dậy của Lê Duy Lương năm 1832 ở Ninh Bình, là con cháu nhà Lê khiến vua Minh Mạng phải yêu cầu Tổng đốc Nghệ Tĩnh là Tạ Quang Cự cùng với Tổng đốc Thanh Hóa là Nguyễn Văn Trọng đem quân ra Ninh Bình bắt được Lê Duy Lương giải về Kinh trị tội và tất cả con cháu Lê bị lưu đày ở Quảng Nam, Bình Định. Chính sách “Phù Lê” của nhà Nguyễn đã chấm dứt.[123]

Khi vua Tự Đức lên ngôi đã cử những danh thần của triều đình làm quan Kinh lược Đại sứ để đi kiểm tra, khám xét công việc ở các nơi trong cả nước. Nguyễn Tri Phương ở Nam Kỳ, Phan Thanh Giản coi ba tỉnh Nam Trung Việt, Nguyễn Đăng Giai kiểm soát ba tỉnh phía Bắc miền Trung. Nhưng từ năm 1851 nhiều cuộc nổi dậy diễn ra ở nhiều nơi, nhất là ở Bắc Kỳ bởi lòng dân ở đây còn tưởng nhớ đến nhà Lê, phá chính quyền triều Nguyễn. Có vài vụ nổi dậy mà người lãnh đạo tự xưng mình thuộc dòng dõi nhà Lê như quân của Lê Duy Phụng, lôi cuốn được khá nhiều người tham gia. Ngoài ra triều đình còn phải lo đối phó dư đảng Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn tổ chức chống lại nhà Thanh bị bại tràn sang Việt Nam. Tàn quân Thái Bình Thiên Quốc cướp phá các vùng thượng du khiến quân đội nhà Nguyễn phải đi đánh dẹp rất phiền phức.[124]

Ngoài mục tiêu chính trị thì một phần cũng do dân chúng phải chịu nhiều thiên tai như lũ lụt liên miên. Đê Văn Giang vỡ liên tục 18 năm lại thuộc tỉnh Hưng Yên là nơi đông dân nhất Bắc Kỳ nên làm phát sinh rối loạn. Thời kỳ này còn có quân Tam Đường do ba lãnh tụ : Quảng Nghĩa Đường, Lục Thắng Đường, Đức Thắng Đường nổi lên tại Thái Nguyên được quan Kinh lược Nguyễn Đăng Giai đến phủ dụ nên đất Bắc được yên ổn. Khi Nguyễn Đăng Giai qua đời ( 1854 ), Bắc Kỳ lại mất bảo mật an ninh, trật tự như cũ. [ 125 ]Khác với những cuộc nổi dậy khác, cuộc nổi dậy của nhóm Lê Duy Cự và Cao Bá Quát không cướp của giết người như những vụ loạn khác mà do sự bất mãn với triều đình, tiềm năng của họ là lật đổ chính quyền sở tại nhà Nguyễn. Bởi cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Cự bùng ra cuối năm ấy mà khoảng chừng tháng 5 có châu chấu phá hoại mùa màng kinh hoàng nên người ta gọi vụ này là ” giặc châu chấu “. [ 126 ]Những cuộc nổi dậy này nhiều lúc dân nghèo đã phối hợp với quân lưu manh, đạo tặc để chống đối nên tuy làm cho Triều đình khốn đốn nhưng vì không có tổ chức triển khai ngặt nghèo, kỷ luật nghiêm minh, không có tín hiệu lệnh thống nhất, trước sau đều thất bại. [ 127 ]Ngoài những cuộc nổi dậy của nông dân ở Bắc Kỳ còn có cả những người nhân thời cơ triều đình suy yếu, nổi lên tứ tung để cướp phá và tận dụng dân lưu vong để rủ họ theo. Ngoài ra cũng có những người bị quân Pháp mua chuộc để quấy rối triều Nguyễn cho họ dễ hành vi. Chưa kể còn có quân giặc người Tàu hoành hành ở miền thượng du Bắc Kỳ. Những cuộc dịch chuyển này khiến triều đình phải dụng binh rất lâu, hao tổn binh sĩ và tài lực rất nhiều. [ 127 ]Năm 1861, với chủ trương của Triều đình Huế gia giảm những chương trình phúc lợi, giải tán những hội đồng Công giáo, ngày càng tăng trấn áp mua và bán lương thực, tăng thuế, cộng với nạn giặc Khách đánh phá mạn ngược và bọn cướp biển Tàu Ô đánh cướp những làng ven biển, khiến tình hình miền Bắc càng trở nên nguy hại, hoàn toàn có thể bùng nổ bất kể khi nào. Các thành phần bị ảnh hưởng tác động nặng nề nhất, dễ nổi lên đối kháng nhất là những nông dân bị nạn lũ lụt, những tộc người thiểu số nghèo khó và những hội đồng Công giáo bị ngược đãi. Đây là những tác nhân khiến cho cuộc nổi dậy do Lê Duy Phụng đứng đầu đặc biệt quan trọng nguy khốn, khiến triều đình Huế phải rất là khó khăn vất vả mới đánh dẹp được. [ 128 ]

Tại Nam Kỳ

Cuộc Nổi dậy ở Đá Vách đã nổ ra, kéo dài ngay từ buổi đầu triều đại vua Gia Long đến suốt hơn nửa thế kỷ.[129] Ngay từ khi lên ngôi, vua Gia Long đã ký ban hành các loại thuế đánh vào lâm thổ sản ở vùng này, làm cho “dân Man quanh năm nộp thuế không lúc nào rỗi” [130], hậu quả là: “dân phải nhặt củ rau và quả ở núi để ăn cho no bụng” [131]. Các vua đầu thời Nguyễn còn mắc sai lầm khi cho rằng: Bọn man mọi ngu dại chưa thấm nhuần phong hóa, cần buộc họ cắt tóc, ăn mặc và sinh hoạt giống như người miền xuôi.[132]
Tất cả đã làm cho người dân Đá Vách nung nấu căm thù, dẫn đến nhiều cuộc giao chiến suốt hơn 50 năm, bất chấp mọi biện pháp trấn áp và chia rẽ của triều đình nhà Nguyễn. Các vụ nổi dậy vào các năm 1803, 1804, 1806, 1807 đã làm cho quan quân nhà Nguyễn thiệt hại không ít.

Cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi là một cuộc nổi dậy xảy ra vào thời vua Minh Mạng ở những tỉnh miền Nam Nước Ta. Lãnh đạo của cuộc nổi dậy này là Lê Văn Khôi nhóm họp những thành phần về phái địa phương phân quyền của Lê Văn Duyệt và những tù nhân Bắc Kỳ bị đi đày để nổi dậy. [ 133 ] Được võ quan, binh lính và dân chúng Phiên An vốn tình cảm với Lê Văn Duyệt đi theo rất đông nên quân nổi dậy từng đánh chiếm được 6 tỉnh phía Nam nhưng sau đó triều đình đã nhanh gọn thu phục những tỉnh này, dồn quân nổi dậy vào cố thủ ở thành Phiên An năm 1835 khi thành Phiên An thất thủ. [ 133 ]
Ngoài ra, tại Nam Kỳ, chủ trương không tương thích của nhà Nguyễn với người thiểu số, đặc biệt quan trọng là người Khmer và chủ trương đối ngoại với vương quốc Chân Lạp cũng gây bất mãn trong hội đồng người Khmer, dẫn đến nhiều cuộc nổi dậy chống lại triều đình, như những cuộc nổi dậy Lâm Sâm, Ba Xuyên, Thất Sơn, Hà Tiên. [ 134 ]

Thời kỳ bị Pháp xâm lăng và đô hộ

Cuộc chiến chống Pháp xâm lăng

Tình trạng của nhà Nguyễn

Do những việc cấm đạo và tàn sát giáo dân của vua Minh Mạng mà ngay trong năm 1838 đã có sĩ quan Hải quân Fourichon đề xuất Pháp gửi Hải quân tới can thiệp nhưng bị Ngoại trưởng Pháp là Guizot bác bỏ. [ 135 ] Dư luận Pháp thì sôi động vì sự ngược đãi giáo dân của Minh Mạng nên ủng hộ đề xuất dùng vũ lực. Khi Thiệu Trị nối ngôi có thái độ mềm mỏng hơn, cho thả 1 số ít linh mục bị bắt và tỏ ý sẽ cho tàu sang Châu Âu mua và bán nhưng sự kiện đụng độ tại Thành Phố Đà Nẵng năm 1847 giữa tàu Pháp và Việt khiến nhà vua tức giận và ông ra lệnh xử tử ngay tại chỗ tổng thể người Âu bắt được tại Nước Ta. [ 136 ]
Chiến hạm Pháp tấn công Gia Định năm 1859.
Khi Tự Đức lên cầm quyền, triều đình vẫn quản lý tuân theo phong thái Nho giáo. [ 137 ] Triều đình không có một giải pháp nào đối phó với phương Tây, ngược lại chỉ cấm đạo và cấm mua và bán kinh khủng hơn trước. [ 137 ] [ 138 ] Nhân vụ An Phong Công Hồng Bảo mưu phản, tìm cách liên hệ với những giáo sĩ để soán ngôi mà nhà vua cho công bố 2 đạo dụ không cho Công giáo những năm 1848 và 1851, từ 1848 – 1860, đã có hàng vạn giáo dân bị tàn sát hay lưu đày. [ 138 ] Cũng đồng thời lúc này, trước tình hình người Pháp xâm lấn, trong triều đình đặt ra yếu tố cải cách : liên tục những năm 1864, 1866, 1868, 1867, 1881 những quan là Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn Điền, Nguyễn Hiệp, Lê Định liên tục dâng sớ xin nhà vua cho cải cách tổng lực quốc gia nhưng nhà vua không quyết dưới sự bàn ra của những đình thần. [ 139 ] Những đề xuất kiến nghị cải cách này được triều đình đem ra hỏi quan điểm quan lại địa phương. Triều đình cũng dùng những yêu cầu này làm đầu đề văn sách hỏi quan điểm sĩ tử nhưng dư luận chung lúc đó là phủ nhận duy tân [ 140 ]. Mãi đến năm 1878, triều đình mới khởi đầu cử người thực thi những bước đầu tiên trong quy trình cải cách là cho học tiếng quốc tế, nhưng đình thần vẫn sự không tương đồng và phát sinh hai phe chủ trương cải cách và bảo thủ, rồi đến khi nước Đại Nam dần rơi vào tay quân Pháp cũng phát sinh hai phe chủ chiến và chủ hòa. [ 141 ]Về việc cá thể, vua Tự Đức không có con nên ông truyền ngôi lại cho một người con của anh mình là vương tử Nguyễn Phúc Ưng Chân. [ 142 ] Việc nối ngôi này liên tục gặp nhiều rối ren, Nguyễn Phúc Ưng Chân lên làm vua hiệu là Dục Đức được ba ngày thì bị phế bỏ rồi giết chết ; một người con khác của vua Thiệu Trị là Nguyễn Phúc Hồng Dật lên nối ngôi tiếp với hiệu Hiệp Hòa cũng bị ép uống thuốc độc sau năm tháng, vị vua kế là Kiến Phúc cũng bất ngờ đột ngột qua đời ( ghi là bệnh, nhưng nghi là bị đầu độc ). [ 143 ] Việc lập phế liên tục này chỉ kết thúc khi vua Hàm Nghi lên ngôi năm 1884. [ 144 ]

Phong trào Cần Vương

Vua Hàm Nghi, vị vua thứ tám của nhà Nguyễn.
Năm 1885, phái chủ chiến trong triều đình nổi dậy tiến công quân Pháp đóng ở kinh đô Huế nhưng thất bại. Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết chạy ra Tân Sở thuộc Quảng Trị, tại đây Tôn Thất Thuyết mượn danh nghĩa vua Hàm Nghi phát chiếu Cần Vương lôi kéo người Việt nổi dậy đánh Pháp giúp vua. Hưởng ứng lời lôi kéo này, nhiều cuộc nổi dậy đã nổ ra trong đó tiêu biểu vượt trội là những cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy, khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa ở Hưng Hóa do Nguyễn Quang Bích chỉ huy … Phong trào vẫn liên tục tăng trưởng cả sau thời hạn vua Hàm Nghi bị Pháp bắt giữ ( năm 1888 ) ; nó chỉ thực sự chấm hết khi chỉ huy cuộc nổi dậy ở Hương Khê là Phan Đình Phùng chết cuối năm 1895 .Nguyên nhân sự thất bại của những trào lưu kháng Pháp bởi sự kháng cự của họ chỉ có tính cách địa phương. Các lãnh tụ Cần Vương chỉ có uy tín tại nơi họ xuất thân, niềm tin địa phương can đảm và mạnh mẽ làm họ chống lại mọi sự thống nhất trào lưu trên 1 quy mô lớn hơn. Khi những lãnh tụ bị bắt hay chết thì quân của họ hoặc giải tán hay đầu hàng. Ngoài ra, những đạo quân này không được lòng dân quê nhiều lắm bởi để có phương tiện đi lại sống và duy trì chiến đấu, có những lúc họ phải đi cướp phá dân chúng. [ 145 ]Ngoài những nguyên do trên, sự thất bại của trào lưu này còn bởi việc xung đột với những nhóm dân thiểu số tại Nước Ta. Quân Cần Vương giết hại hàng loạt những người Việt theo Công giáo vì cho rằng nhóm dân này làm nội gián cho Pháp, điều này lại thôi thúc giáo dân tự vệ bằng cách thông tin tin tức cho phía Pháp. Những thống kê của người Pháp cho biết có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết hại. [ 146 ] Chính sách sa thải những quan chức Việt và cho những dân tộc thiểu số được quyền tự trị thoáng rộng của Pháp cũng làm cho những sắc dân này đứng về phía Pháp. Chính người Thượng đã bắt Hàm Nghi, những bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt đường liên lạc của quân Cần Vương với Trung Hoa làm cạn nguồn khí giới của họ. Quen thuộc rừng núi, họ cũng giúp quân Pháp cuộc chiến tranh phản du kích đầy hiệu suất cao. [ 147 ]

Thời Pháp thuộc

Bản đồ Đông Dương năm 1886
Theo những Hòa ước Harmand và Hòa ước Patenôtre thì chủ trương ngoại giao, quân sự chiến lược và tài chánh do nước Pháp trấn áp nhưng không có sự hợp nhất giữa 2 vương quốc Đại Nam và Pháp. Nước Pháp sau khi không mua chuộc được vua Hàm Nghi bèn cho ông đi an trí ở Algérie. Sau đó anh cả Kiến Phúc, Hàm Nghi là Nguyễn Phúc Ưng Biện kế vị, lấy niên hiệu là Đồng Khánh. [ 148 ] Vua Đồng Khánh bị trách là đã lên ngôi trong những điều kiện kèm theo quá nhục nhã so với vương quốc. Bị cô lập và thiếu kinh nghiệm tay nghề, ông phải nhượng bộ cho người Pháp để đổi lấy sự trợ giúp về mặt hành chính và quân sự chiến lược. Năm 1887, Liên bang Đông Dương được xây dựng gồm thuộc địa Nam Kỳ, 2 xứ bảo lãnh Trung Kỳ và Bắc Kỳ cùng Lào và Cao Miên đều đặt dưới 1 viên quan Toàn quyền Đông Dương người Pháp. Năm 1888, vua Đồng Khánh còn phải nhường cho nước Pháp mọi quyền hành trên 3 thành phố TP.HN, TP. Hải Phòng và Thành Phố Đà Nẵng, 3 khu vực này cũng trở thành 3 thuộc địa. [ 149 ]Quyền hành của nhà vua còn bị hạn chế hơn nữa khi Paul Doumer trở thành Toàn quyền Đông Dương. Từ 1897 – 1902, toàn quyền Paul Doumer đã vận dụng 1 chủ trương quản lý độc tài, vô hiệu dần ảnh hưởng tác động của triều Nguyễn. Quan lại cấp tỉnh phải phụ thuộc vào trực tiếp Thống sứ Pháp, quản lý xứ Bắc Kỳ nhân danh Hoàng đế nhưng lại không cần phải nghe lệnh của vị vua Đại Nam. Các quan cũng phải nhường cho Công sứ Pháp quyền đề cử và chỉ định hương chức. Cơ quan hành chính Pháp cũng đảm nhiệm thu thuế và giao cho ngân khố của triều đình một ngân sách thiết yếu cho việc duy trì triều đình. Paul Doumer đã sửa chữa thay thế chính sách bảo lãnh bằng chính sách trực trị và triều đình từ lúc đó chỉ còn giữ lại được những hình thức vẻ bên ngoài. Vua Thành Thái vào năm 1907 đã bị ép phải thoái vị khi không phê chuẩn việc chỉ định 1 số ít quan lại đã được Khâm sứ Lévêque và Hội đồng Thượng thư thỏa thuận hợp tác. Hoàng tử Nguyễn Phúc Vĩnh San được đưa lên nối ngôi, tức vua Duy Tân. Cũng như vua cha Thành Thái, Duy Tân là người có tư tưởng chống Pháp. Năm 1916, ông link cùng Nước Ta Quang phục Hội của nhóm Thái Phiên và Trần Cao Vân nổi dậy nhưng thất bại và bị đày ra hòn đảo La Réunion cùng lúc với cha mình. [ 150 ]

Năm 1922, vua Khải Định sang Pháp để đòi hỏi nước Pháp phải cho người Việt được tham gia chính trị nhiều hơn nhưng cuộc hành trình này đã không đem lại kết quả nào.[151] Chuyến đi này đã bị Nguyễn Ái Quốc châm biếm trong tác phẩm Vi hành của ông đăng trên báo L’Humanité số ngày 19 tháng 2 năm 1923. Ngày 6 tháng 11 năm 1925, lợi dụng việc vua Khải Định vừa qua đời, Toàn quyền Alexandre Varenne đã ép vị vua mới là Bảo Đại mới 12 tuổi phải ký thỏa ước giao cho quan Khâm sứ Pháp các quyền hạn cuối cùng. Thậm chí nhà vua còn không thể lựa chọn các Thượng thư và quan chức. Nước Đại Nam trên thực tế đã trở thành 3 mảnh có đời sống và thể chế riêng biệt. Nam Kỳ sáp nhập vào Pháp, Bắc Kỳ gần như 1 thuộc địa và Trung Kỳ là nơi mà quy chế bảo hộ chỉ là lý thuyết.[152]

Sụp đổ

Hoàng đế Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, chế độ quân chủ và thời phong kiến ở Việt Nam.
Khi quay trở lại nước năm 1932, Bảo Đại đã mong ước cải cách xã hội Nước Ta nhưng trào lưu này đã chết yểu bởi sự đối địch với những quan Thượng thư của ông như Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khả, cũng như sự chống đối của giới bảo thủ và chính phủ nước nhà bảo lãnh Pháp. Nhà vua nản lòng sớm, chuyển sang tiêu khiển bằng bơi thuyền và săn bắn. Trước thực tiễn nhà Nguyễn không còn năng lực chống Pháp, nhiều đảng phái cách mạng được tổ chức triển khai để đánh đuổi người Pháp. Việt Nam chi bộ của hội Á Tế Á Áp bức Nhược tiểu Dân tộc do Nguyễn Ái Quốc xây dựng ở Quảng Đông. Năm 1926, Tân Việt Cách mạng Đảng hoạt động giải trí ở TP Hà Tĩnh và TP HCM. Năm 1927, Phạm Tuấn Tài, Hoàng Phạm Trân, Nguyễn Thái Học lập ra Nước Ta Quốc dân Đảng. Năm 1928, Tạ Thu Thâu và Nguyễn An Ninh lập Đệ tứ Quốc tế. Năm 1930, Nước Ta Cách mạng Đồng chí Hội đổi ra Đông Dương Cộng sản Đảng .Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp giành thắng lợi được cho phép không khí chính trị tại Đông Dương mang tính tự do hơn. Tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, cơ quan chính phủ Bảo hộ không được cho phép đảng phái chính trị nào hoạt động giải trí. Dù vậy chính phủ nước nhà Pháp đã nhượng bộ một phần trước những cuộc bãi công của công nhân. Năm 1937, trào lưu đình công và biểu tình lại tái phát vượt quá đặc thù nghề nghiệp để mang nhiều tính chính trị hơn. Chiến tranh quốc tế thứ hai bùng nổ, Nhật Bản mang quân vào đánh chiếm Đông Dương .Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật Bản thay máu chính quyền Pháp. Theo sắp xếp của Nhật Bản, vua Bảo Đại chỉ định Trần Trọng Kim làm Thủ tướng sửa chữa thay thế cho Nội các Phạm Quỳnh tại Huế. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, Bảo Đại ra đạo dụ ” Tuyên cáo Nước Ta độc lập “, công bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, Phục hồi chủ quyền lãnh thổ Nước Ta, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Trong công bố của Bảo Đại, bãi bỏ những hiệp ước bảo lãnh và mất độc lập với Pháp trước đây [ 153 ]. Ngày 7 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại đã ký đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội những Trần Trọng Kim và ngày 12 tháng 5 giải thể Viện Dân biểu Trung Kỳ. Tháng 6 năm 1945, cơ quan chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam. [ 153 ]Theo nhà sử học Joyce C. Lebra, Đế quốc Việt Nam được xây dựng như một bộ phận của chủ trương Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á của Nhật. Tuy nhiên, nó cũng chỉ là một trong những khẩu hiệu và khái niệm được dùng để biện hộ cho sự chiếm đóng của Đế quốc Nhật Bản tại Đông Á từ thập niên 1930 cho đến hết Chiến tranh quốc tế thứ hai, trong đó những chính quyền sở tại bản xứ phải hoạt động người dân và nền kinh tế tài chính trong nước Giao hàng cho quyền lợi của Đế quốc Nhật Bản. Các chính quyền sở tại này trên danh nghĩa là độc lập, tuy nhiên thực tiễn không có nhiều quyền lực tối cao, hầu hết những chủ trương quan trọng đều do lực lượng quân quản Nhật quyết định hành động ( tiêu biểu vượt trội như cơ quan chính phủ bù nhìn Mãn Châu quốc của cựu nhà vua nhà Thanh ( Phổ Nghi ) hay cơ quan chính phủ bù nhìn Đế quốc Đại Hàn ). [ 154 ]

Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Trần Trọng Kim tuyên bố sẽ bảo vệ nội các Đế quốc Việt Nam và ngày 18 tháng 8 tạo ra một ủy ban giải phóng dân tộc, nhóm tất cả các đảng phái chính trị để lãnh đạo. Theo lời khuyên của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bảo Đại gửi thông điệp cho Tổng thống Truman, vua nước Anh, Thống chế Tưởng Giới Thạch, Tướng De Gaulle đề nghị công nhận chính phủ Đế quốc Việt Nam. Thông điệp này có đoạn “Ông sẽ hiểu tốt hơn nếu ông có thể chứng kiến những gì đang diễn ra ở đây, nếu ông có thể cảm nhận được khát khao độc lập đến tận tâm can của mỗi người mà không một thế lực nào có thể ngăn cản nổi. Thậm chí nếu ông muốn tái lập chế độ cai trị của người Pháp ở đây thì nó sẽ không tiếp tục được tuân phục; mỗi làng mạc sẽ trở thành một ổ kháng chiến, mỗi người cộng tác cũ thành một kẻ thù và những quan chức, những tên thực dân của ông chính họ sẽ yêu cầu rời khỏi không khí ngạt thở này… Chúng ta có thể dễ dàng hiểu nhau và trở thành bạn bè nếu ông hủy bỏ tuyên bố trở thành ông chủ của chúng tôi một lần nữa“[155] và cho rằng sự độc lập của Việt Nam “chỉ có nghĩa là bảo vệ lợi ích của Pháp và ảnh hưởng tinh thần Pháp ở Đông Dương“. Tuy nhiên De Gaulle dự kiến sẽ hậu thuẫn cho một chế độ quân chủ mà người đứng đầu không phải là Bảo Đại, người đã thỏa hiệp với Nhật Bản (kẻ thù của Pháp), mà là Vĩnh San, được xem như là một người “Gaullist”.[156] Tất cả các bức thư của Bảo Đại đều không được hồi âm, bởi theo Tuyên bố Cairo, các nước trong khối Đồng Minh sẽ không công nhận bất cứ chính phủ nào do Đế quốc Nhật Bản thành lập tại các lãnh thổ mà Nhật chiếm đóng. Đến 24 tháng 8, Hội đồng Cơ mật khuyên vua Bảo Đại quyết định thoái vị “để không phải là một trở ngại cho sự giải phóng của đất nước”.[157]

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh ngày 15 tháng 8 năm 1945, Mặt trận Việt Minh do Hồ Chí Minh chỉ huy đã thực thi thành công xuất sắc Cách mạng tháng Tám, đưa Nước Ta trở thành nước độc lập từ tay người Nhật và người Pháp .Ngày 30 tháng 8 năm 1945, vua Bảo Đại đọc bản Tuyên ngôn Thoái vị trước cửa Ngọ Môn. Đế quốc Việt Nam bị giải tán và nhà nước lâm thời do Hồ Chí Minh làm quản trị chính thức công bố Nước Ta độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. [ 158 ]Sự kiện Bảo Đại thoái vị chính thức lưu lại sự sụp đổ của nhà Nguyễn ( mặc dầu sau đó, dưới sự sắp xếp của Pháp, Bảo Đại còn liên tục làm quốc trưởng của Quốc gia Nước Ta từ ngày 1 tháng 7 năm 1949 đến ngày 26 tháng 10 năm 1955 ). Sự kiện này cũng đã lưu lại sự chấm hết suốt 2 nghìn năm chế độ quân chủ chuyên chế ở Nước Ta, đồng thời Huế không còn sống sót là kinh đô Nước Ta nữa. Nhà Nguyễn tồn tại 143 năm, có 13 đời vua thuộc 7 thế hệ. [ 159 ]

Di sản

Văn hóa

Thời kỳ nhà Nguyễn đã để lại nhiều di sản văn hóa cho dân tộc Việt Nam, một số đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới như Quần thể di tích Cố đô Huế, di sản văn hóa phi vật thể như Nhã nhạc cung đình Huế[160] và Di sản tư liệu thế giới như Mộc bản triều Nguyễn. Giáo sư Phan Huy Lê nhận xét rằng: “Chưa có một thời kỳ lịch sử nào để lại cho dân tộc ba di sản văn hóa được thế giới công nhận và tôn vinh với những giá trị mang ý nghĩa toàn cầu như vậy.” [161]

Nhà Nguyễn cũng để lại mạng lưới hệ thống thư tịch rất lớn như Châu bản triều Nguyễn ; và hàng ngàn di tích lịch sử kiến trúc như đình, chùa miếu, nhà thời thánh … trải dài từ Nam chí Bắc … Nhiều di sản trong số này có thời kỳ dài bị quên béng do bị coi như một thứ ” tàn dư của phong kiến thối nát “, nay được ” khơi lại, phủi bụi, tôn vinh “. [ 162 ]

Quần thể di tích lịch sử Cố đô Huế

Lăng Khải Định.

Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào ngày 11 tháng 12 năm 1993. Phần lớn các di tích này hiện nay thuộc sự quản lý của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế. Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, công trình xây dựng Kinh thành Huế có lẽ là công trình đồ sộ, quy mô nhất với hàng vạn lượt người tham gia thi công, hàng triệu mét khối đất đá, với một khối lượng công việc khổng lồ như đào hào, lấp sông, di dân, dời mộ, đắp thành… kéo dài từ thời điểm tiến hành khảo sát dưới triều vua Gia Long năm 1803 đến khi hoàn chỉnh triều vua Minh Mạng vào năm 1832.[163] Phong cách kiến trúc và cách bố phòng khiến Kinh thành Huế thực sự là một pháo đài vĩ đại và kiên cố nhất từ trước đến nay ở Việt Nam mà một thuyền trưởng người Pháp là Le Rey khi tới Huế năm 1819 phải thốt lên: “Kinh Thành Huế thực sự là pháo đài đẹp nhất, đăng đối nhất ở Đông Dương, thậm chí so với cả pháo đài William ở Calcutta và Saint Georges ở Madras do người Anh xây dựng”.[163]

Mộc bản và bảo vật

Con dấu “Hoàng đế tôn thân chi bảo” bằng ngà (1885) của triều Nguyễn, hiện đang trưng bày trong Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh
Mộc bản triều Nguyễn được UNESCO công nhận là di sản tư liệu quốc tế đầu tiên tại Nước Ta ngày 31 tháng 7 năm 2009. Bộ Mộc bản này gồm 34.618 tấm, là những văn bản chữ Hán – Nôm được khắc ngược trên gỗ để in ra những sách tại Nước Ta vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, và hiện đang được dữ gìn và bảo vệ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV – Đà Lạt, Lâm Đồng ( xưa và nay vẫn là Biệt điện Trần Lệ Xuân [ 164 ] – Khu Di tích của TP. Đà Lạt ). [ 165 ]Ngoài những di tích lịch sử lịch sử dân tộc như đền đài, dinh thự, thời đại nhà Nguyễn cũng để lại nhiều bảo vật, là dấu tích của mỹ thuật Nước Ta thế kỷ 18 và 19, trong đó có nhiều kim ấn, ngọc tỷ truyền quốc, bửu tỷ, bảo kiếm, hàng bằng tay thủ công mỹ nghệ và mỹ thuật. Cuối năm 2010, lần đầu tiên sau 50 năm được dữ gìn và bảo vệ tại Bảo tàng Lịch sử Nước Ta, những bảo vật này đã được đem ra tọa lạc. [ 166 ] Riêng quốc ấn ( nặng khoảng chừng 10 kg vàng ) và quốc kiếm của vua Bảo Đại, trao lại cho Trần Huy Liệu, Trưởng đoàn Đại biểu chính phủ nước nhà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945 [ 167 ] [ 168 ] đã bị mất trộm tại viện kho lưu trữ bảo tàng Nước Ta và thất lạc. [ 169 ] [ 170 ] Cả ấn tín của hoàng hậu Nam Phương cũng bị trộm mất .

Lệ bất khả

Nguồn gốc của “ tứ bất khả ” ( ” tứ bất lập ” )

Trong giới sử học hiện nay hình thành 2 luồng ý kiến khác nhau về lệ bất khả của nhà Nguyễn. Nguyễn Phan Quang và Trương Hữu Quýnh cho rằng: để đề cao uy quyền nhà vua và ngăn chặn nạn quyền thần lấn át hoàng đế, vua Gia Long đã đặt ra lệ Tứ bất: trong triều không lập Tể tướng, thi Đình không lấy Trạng nguyên, trong cung không lập Hoàng hậu, không phong tước vương cho người ngoài họ vua.[47][171]

Lê Nguyễn có quan điểm ngược lại về yếu tố này, tuy nhiên ông chỉ đề cập tới ” tam bất ” chứ không phải ” tứ bất ” :

“Trong khi triều Nguyễn có một Quốc sử quán làm việc thật hiệu quả, đã cho ra đời những bộ sử… lớn lao, thì không thấy ai viện dẫn một chỉ dụ nào của các vua Nguyễn quy định những điều bất khả đó…”[172]

Một trong những lí do khiến cho quan điểm hoàn toàn sai lầm này được quá nhiều người tin là vì nó được lặp đi lặp lại trong Sách giáo khoa Lịch sử dùng trong nhà trường: từ bậc Tiểu học đến Trung học Cơ sở và cả Trung học Phổ thông. Các Sách giáo khoa Lịch sử lớp 4 (bài 27), lớp 7 (bài 27) và lớp 10 (bài 25) (cả ban Cơ bản lẫn Nâng cao) của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam khi viết về giai đoạn Nguyễn sơ (1802 – 1858) không bao giờ quên việc chèn thêm một đoạn có nội dung đại khái là:

“Các vua nhà Nguyễn đề ra lệ tứ bất lập để củng cố quyền lực của mình, lệ tứ bất lập gồm: không lập Hoàng hậu, không lập Tể tướng, không phong tước Vương (cho người trong Hoàng tộc còn sống) và không lấy đỗ Trạng nguyên”

Kiến thức xô lệch này được giáo viên truyền tải trong những bài giảng, những thế hệ học viên thuộc nằm lòng và vào cả những đề thi môn Lịch sử và biến nó thành một điều quá hiển nhiên khi nhắc về nhà Nguyễn. Tìm về nguồn gốc của lập luận này, không lạ mấy khi thấy chúng được nhắc đến lần đầu trong quyển sách Lịch sử Nước Ta, tập 1 của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ( 1971 ), tức là thông tin này trọn vẹn không xuất phát từ chính sử triều Nguyễn mà được viết ra khi nhà Nguyễn cáo chung được 26 năm. Cuốn sách Lịch sử mang nặng tính giai cấp này đã chỉ rõ Hoàng đế Gia Long, người sáng lập Hoàng triều Nguyễn, là người đề ra lệ tứ bất lập. Tạm thời bỏ lỡ 3 lệ Bất lập còn lại : không lập Tể tướng, không lập Trạng nguyên và không phong tước Vương đã được những học giả khác bác bỏ trọn vẹn thì bài viết sẽ xoáy mạnh đến yếu tố “ bất lập Hoàng hậu ”. Đây là thiếu sót khá lớn của những học giả khác khi đã không hề bác bỏ ý sai này một cách triệt để, hậu quả là trong 4 lệ bất lập, khi 3 lệ bất lập kia đã được phần đông mọi người gật đầu là sai lầm đáng tiếc thì vẫn còn rất đông tin rằng : nhà Nguyễn bất lập Hoàng hậu. [ 173 ]

Bất khả Trạng nguyên

Thực tế là triều Nguyễn không có một Trạng nguyên nào. Trạng nguyên là người xếp hạng cao nhất trong số những tiến sỹ dự kỳ thi Đình dưới những triều đại trước. Thời Nguyễn, triều đình tổ chức triển khai thi Hội để lấy tiến sỹ và thi Đình để xếp hạng những tiến sỹ ; những tân khoa tiến sỹ dự thi Đình được xếp theo giáp đệ, còn gọi là tam giáp :

  • Đệ nhất giáp gọi là Tiến sĩ cập đệ với 3 người đứng đầu là Trạng nguyên, Bảng Nhãn và Thám Hoa. Đến nhà Nguyễn bỏ Trạng nguyên.
  • Đệ nhị giáp gọi là Tiến sĩ xuất thân hay Hoàng Giáp.
  • Đệ tam giáp gọi là đồng Tiến sĩ xuất thân hay gọi tắt là Tiến sĩ

Việc xếp hạng tiến sỹ như trên không phải là ý tưởng sáng tạo mới của nhà Nguyễn nhằm “ tránh mặt ” thương hiệu Trạng nguyên hay hạ thấp vị thế của người thi đỗ cao nhất, mà việc này từng thực thi dưới những triều đại trước :

  • Năm 1232 thời Trần Thái Tông mở thi Thái học sinh, “lấy Trương Hanh, Lưu Diễm đỗ đệ nhất giáp; Đặng Diễn, Trịnh Phẫu đỗ đệ nhị giáp; Trần Chu Phổ đỗ đệ tam giáp”.[174]
  • Năm 1442 thời Lê Thái Tông, “Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đỗ, Lương Như Hộc ba người đỗ tiến sĩ cập đệ; bọn Trần Văn Huy 7 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Ngô Sĩ Liên 23 người đỗ tiến sĩ đồng xuất thân…”.[175]
  • Năm 1499 thời Lê Hiến Tông, “cho Đỗ Lý Khiêm, Lương Đắc Bằng, Nguyễn Khắc Kiệm ba người đỗ tiến sĩ cập đệ, bọn Hoàng Trưng, Nguyễn Hằng 24 người đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân…”.[176]

Lê Nguyễn khẳng định phương pháp xếp hạng tiến sỹ trong thi Đình theo giáp đệ đã Open trước khi có thương hiệu Trạng nguyên và không có gì độc lạ giữa hai cách gọi trên. Do đó, việc triều Nguyễn áp dụng hình thức giáp đệ trong thi đình mà không chọn Trạng nguyên là rất thông thường, không xuất phát từ một lệ “ bất khả ” nào. [ 177 ]

Bất khả hoàng hậu

Trên thực tiễn sử sách ghi nhận nhà Nguyễn có tối thiểu 3 hoàng hậu : hoàng hậu thời Gia Long là Thừa Thiên Cao Hoàng hậu ( mẹ hoàng tử Cảnh ), thời vua Hiệp Hòa là Lệ Thiên Anh Hoàng hậu ( vợ vua Tự Đức ) và hoàng hậu thời Bảo Đại là Nam Phương hoàng hậu .Ngoài ra, sử liệu nhà Nguyễn không hề phủ nhận sự sống sót của ngôi vị hoàng hậu : [ 178 ]

  • Sách Minh Mệnh chính yếu ghi: “Nay châm chước đời xưa và đời nay, đặt bị quý phi, thần phi vào bậc nhất… trên bậc nhất đặt một vị hoàng quý phi để giúp Hoàng hậu điều khiển chính sự trong cung”.
  • Sách Đại Nam điển lệ toát yếu dành hẳn khoản 183 để định nghi thức “tuyên sách văn lập Hoàng hậu”.

Lê Nguyễn cho rằng : việc những triều vua từ Minh Mạng tới Khải Định không phong hoàng hậu không xuất phát từ lệ nào mà vì chưa tìm được người xứng danh hoặc chưa thấy cần làm. [ 178 ]

Bất khả tể tướng

Thời Gia Long đặt quan chế trên cơ sở tìm hiểu thêm thời Hậu Lê. Sang thời Minh Mạng có việc tổ chức triển khai lại cỗ máy và vận dụng tới hết thời Nguyễn, theo đó đứng đầu cỗ máy quan lại là tứ trụ triều đình. Khi tìm hiểu thêm sử sách những đời trước cũng rất khó tìm thấy chức vụ tể tướng trong hàng quan lại đầu triều : [ 179 ]

  • Thời Tiền Lê: Đứng đầu là thái sư, thái úy, tổng quản
  • Thời Lý: thái sư, thái phó, thái bảo, tổng quản, tướng công
  • Thời Trần: lấy ba chức thái, ba chức thiếu (thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo), thái úy, tư đồ, tư mã, tư không. Chức Tể tướng thì thêm danh hiệu Tả hữu tướng quốc bình sự
  • Thời Hậu Lê, trong quan chế thời Hồng Đức (Lê Thánh Tông) năm 1471 và được áp dụng phổ biến trong các triều vua Hậu Lê sau đó, không thấy có chức danh Tể tướng.

Như vậy việc triều Nguyễn không đặt chức vụ Tể tướng cũng là điều thông thường như những triều đại trước, không có cơ sở để chứng minh và khẳng định đó là một điều pháp luật “ bất khả tể tướng ” của nhà Nguyễn .Lê Nguyễn cho rằng việc nhà Nguyễn không đặt chức vụ tể tướng, vận dụng chính sách khoa cử đỗ tam giáp và nhiều triều vua không phong hoàng hậu không có gì là không bình thường và không phải là sự vận dụng riêng không liên quan gì đến nhau của triều đại này, mà nó tương thích và tiếp thu theo thông lệ từng có ở những triều đại trước. [ 180 ]

Nhận định

Về yếu tố tổ chức triển khai hành chính

Nhà Nguyễn là vương triều đã triển khai xong việc chấm hết chia cắt, phân loại Đàng Trong, Đàng Ngoài dù rằng trào lưu Tây Sơn là những người đầu tiên triển khai quy trình này ( thậm chí còn cuối thời Tây Sơn cũng đang có rủi ro tiềm ẩn phân liệt ). [ Ghi chú 2 ] Triều Nguyễn từ Gia Long đến Minh Mạng đều lo củng cố vương quyền đồng thời củng cố chủ quyền lãnh thổ dân tộc bản địa, chống mọi sự vi phạm, xâm phạm từ bên ngoài và bên trong, kể cả bằng những giải pháp như trấn áp kinh khủng Công giáo thời kỳ Minh Mạng và Tự Đức. [ Ghi chú 3 ]Những thành quả của vương triều Nguyễn trong việc kiến thiết xây dựng nhà nước quân chủ phong kiến tập quyền thống nhất trên toàn chủ quyền lãnh thổ cũng được ghi nhận từ việc quản trị quốc gia. Đặc biệt là những thành tựu trong cải cách hành chính dưới triều Minh Mạng còn có nhiều giá trị. Nhà điều tra và nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho rằng :

Nhà Nguyễn có nhiều chính sách hay. Chính sách Đình Nghị: Đã đi họp là phải phát biểu. Ý kiến trong Đình Nghị phải được ghi chép. Nếu không phát biểu trong kỳ họp trước, kỳ sau sẽ không được đi họp nữa. Hay chủ trương Hầu trị: Người của địa phương không được đứng đầu trong địa phương. Phải đi nơi khác làm quan, khi đến địa phương khác, không được lấy vợ, mua đất ở đó. Giám khảo chấm thi không được tham gia khi có người nhà đi thi, hoặc phải trình báo… Đây là những chính sách mà ngày nay chúng ta cần học tập.[181]

Triều Nguyễn từng bị Ủy ban Khoa học Xã hội Nước Ta ( Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ) nhìn nhận là ” chế độ quân chủ chuyên chế cực kỳ phản động ” và cho rằng nhà Nguyễn đã ” tăng cường cỗ máy đàn áp “, ” cỗ máy quan lại hủ lậu mục nát “. [ 182 ] Nhưng nhiều nhà sử học về sau cho rằng cỗ máy quan lại trong thời kỳ đầu triều Nguyễn không thực sự hủ bại, thối nát, từ đời vua Gia Long ( 1802 – 1820 ) đến Minh Mạng ( 1820 – 1840 ), nhà Nguyễn đã ” thực thi công cuộc cải cách hành chính theo khuynh hướng đơn thuần, hài hòa và hợp lý, hiệu suất cao, chú trọng thiết kế xây dựng đội ngũ quan lại có năng lượng, phân phối nhu yếu của quốc gia “. Sự hủ bại, thối nát của cỗ máy quan lại nhà Nguyễn thực sự chỉ diễn ra từ đời vua Tự Đức ( 1847 – 1883 ) trở về sau. Sự đổi khác về quan điểm này được cho là do lúc bấy giờ những nhà sử học đã có được ” nguồn sử liệu tổng lực, đa dạng chủng loại và chiêu thức tiếp cận khách quan, khoa học, cộng với độ lùi thời hạn thiết yếu “. [ 183 ]

Vấn đề cải cách thất bại

Theo Nguyễn Quang Trung Tiến ( Trường Đại học Khoa học Huế ), so với những đề xướng cải cách, thái độ của nhà Nguyễn là đảm nhiệm những điều trần chứ không quay sống lưng. Vua Tự Đức và triều thần có vẻ như đã đọc không bỏ sót một bản điều trần nào của những nhà cải cách gửi về Huế ; … đồng thời đã tổ chức triển khai triển khai việc cải cách ở 1 số ít nghành nghề dịch vụ. Tuy nhiên, nhà Nguyễn đã thất bại trong việc cải cách, những việc làm thực thi chưa nhiều và không đồng nhất, không hề tạo ra một cuộc cải cách thực sự như ” Minh Trị Duy tân ” ở Nhật Bản, để rồi dang dở bất thành. [ 184 ] Những nguyên do cơ bản là :

  1. Cuộc cải cách của triều Nguyễn gặp phải hạn chế khách quan là không hề có những hậu thuẫn quan trọng về xã hội, thiếu hẳn một giai cấp đủ năng lực tiến hành cải cách.
  2. Giai cấp phong kiến Việt Nam chưa có khuynh hướng tư sản hóa nên số đông triều thần nhà Nguyễn đã bị tầm nhìn hạn hẹp và sự thủ cựu chi phối, năng lực bản thân hạn chế.
  3. Không có người biết tổ chức, quản lý, tay nghề không có, kỹ thuật yếu kém.
  4. Sau khi Nam Kỳ mất, tiềm lực quốc gia hao mòn quá lớn, nguồn tài chính cạn kiệt, mất mùa đói kém triền miên, dân chúng nổi lên khắp nơi, nên sự đầu tư cho cuộc canh tân không đủ, nhiều chương trình học nước ngoài bị bỏ dở nửa chừng. Riêng nguyên nhân này còn có tác động từ phía Pháp: không ít lần người Pháp đã ngăn không cho du học sinh Việt Nam ra nước ngoài học; hoặc việc mua tàu máy, vũ khí của nước ngoài cũng bị Pháp phá hỏng…[184]

Việc mất lòng dân và mất nước

Từ năm 1945 đến trước năm 1975, đã có những ý kiến đánh giá phê phán nhà Nguyễn rất gay gắt trong giới sử học ở miền Bắc Việt Nam, chủ yếu bởi việc vua Gia Long đã cầu viện ngoại xâm để giành ngôi vua, và việc nhà Nguyễn đã để mất nước vào tay Pháp. Ngay từ năm 1961, ngay trước khi cho ấn hành tập đầu tiên của bộ Đại Nam thực lục, Viện Sử học Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã viết nhận định:

Những sự kiện lịch sử xảy ra trong khoảng thời gian từ Nguyễn Hoàng đến Đồng Khánh 1558–1888, những công việc mà các vua [chúa] nhà Nguyễn đã làm trong khoảng thời gian 330 năm ấy,… tự chúng tố cáo tội ác của nhà Nguyễn trước lịch sử của dân tộc chúng ta.

Theo lệnh của các vua nhà Nguyễn, bọn sử thần của nhà Nguyễn làm công việc biên soạn Đại Nam thực lục đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn cho triều đại nhà Nguyễn…”“Nhưng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi các sự thật của lịch sử. Dưới ngòi bút của họ, sự thật của lịch sử… vẫn phơi bày cho mọi người biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những chúng đã cõng rắn cắn gà nhà, mà chúng còn cố tâm kìm hãm, đày đọa nhân dân Việt Nam trong một đời sống tối tăm đầy áp bức

— [185]

Sách Lịch sử Việt Nam do Viện Khoa học Xã hội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bản năm 1971 cũng cho rằng:

Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của người nước ngoài. Gia Long lên làm vua lập ra triều Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông dân… Triều Nguyễn là vương triều tối phản động… Bản chất cực kỳ phản động của chế độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố, trả thù vô cùng đê hèn của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những người thuộc phái Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em…Chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802–1819) đến Minh Mệnh (1820–1840), Thiệu Trị (1841–1847), Tự Đức (1847–1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính vì khiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế.
— [186]

Ngoài ra còn các nhận định trong các tiểu mục khác như “Tăng cường bộ máy đàn áp”, “Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát”, “Chế độ áp bức bóc lột nặng nề”, “Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động”, “Chính sách đối ngoại mù quáng”, v.v… và trong tập II của bộ Lịch sử Việt Nam xuất bản vào năm 1985, các tác giả thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội còn dùng những từ ngữ rất mạnh như: “triều đình nhà Nguyễn thối nát và hèn mạt”, “Vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn”, “cực kỳ ngu xuẩn”, “tên chúa phong kiến bán nước số 1 là Nguyễn Ánh… Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực ngoại bang giúp hắn thỏa mãn sự phục thù giai cấp”,…

Dù vậy, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, vào thời gian đang chỉ huy việc biên soạn bộ sách lịch sử ( do Ủy ban Khoa học Xã hội chủ trì, đả phá kinh khủng những chúa Nguyễn và triều Nguyễn ) cũng nhắc nhở những người tham gia biên soạn bộ sử ấy rằng, đến khi nào đó, khi có nhiều tư liệu hơn thì phải nhìn nhận lại chính những quan điểm của bộ sử này về những chúa Nguyễn và triều Nguyễn. [ 187 ]GS Phan Huy Lê, quản trị Hội Khoa học Lịch sử Nước Ta nhận định và đánh giá, thời kỳ những chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn từ thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XIX là một thời kỳ lịch sử dân tộc đã trải qua những cách nhìn nhận và nhìn nhận rất là khác nhau, có những lúc gần như hòn đảo ngược lại. Triều Nguyễn được đặt trong khung kim chỉ nan hình thái kinh tế tài chính – xã hội là thời kỳ suy vong của chính sách phong kiến trước chủ nghĩa tư bản, nên lâm vào khủng hoảng cục bộ nặng nề, và chịu nhiều nhìn nhận xấu đi .Theo ông Nguyễn Đắc Xuân ( Hội Sử học Thừa Thiên Huế ), đánh giá và nhận định xấu đi về nhà Nguyễn còn có 4 xu thế : con cháu nhà Lê – Trịnh viết về chúa Nguyễn có những điểm sai ; thực dân Pháp, Công giáo và những người điều tra và nghiên cứu nhà Tây Sơn, thích Tây Sơn đều có những nhìn nhận xấu đi về nhà Nguyễn. [ 161 ]Quan điểm phê phán nhà Nguyễn chi phối xã hội miền Bắc Nước Ta ( từ năm 1954 ) và miền Nam Nước Ta ( từ sau năm 1975 ) trong một thời hạn dài nên nhiều di tích lịch sử, tên đường phố, trường học, những khu công trình công cộng tại những đô thị có tương quan nhà Nguyễn bị thay tên. Một thời hạn dài Quần thể di tích lịch sử Cố đô Huế bị bỏ mặc để trở thành phế tích sau những đổ nát của cuộc chiến tranh và lụt lội … [ 187 ] Cũng theo ông Phan Thuận An, chỉ trong hai thập niên gần đây ( 1987 – 2008 ), nhiều cuộc hội thảo chiến lược khoa học và nhiều khu công trình nghiên cứu và điều tra đã từ từ có cái nhìn dễ chịu và thoải mái hơn chứ không còn nóng bức như trước so với vương triều này. [ 185 ]

Tuy nhiên, trong quyển Đại cương Lịch sử Việt Nam tập II do giáo sư Đinh Xuân Lâm biên soạn gần đây (bản năm 2007) tiếp tục khẳng định “triều Nguyễn thành lập là sự thắng thế của tập đoàn phong kiến tối phản động trong nước có tư bản nước ngoài ủng hộ”.[188] Ông Lâm cũng cho rằng nhà Nguyễn “là 1 nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung cao độ với 1 chế độ chính trị lạc hậu, phản động”.[188] “Mọi chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội triều Nguyễn ban hành đều nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn”…[188] và các biện pháp khai hoang hay mộ dân lập ấp đều “xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị”.[189]

Để duy trì chế độ xã hội thối nát nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi, phong kiến nhà Nguyễn ra sức củng cố trật tự bằng mọi cách.” “Đối nội, chúng ra sức đàn áp khủng bố các phong trào của quần chúng”“Đối ngoại, chúng ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các nước láng giềng như Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia và tài lực nhân dân bị khánh kiệt. Còn đối với các nước tư bản phương Tây thì chúng thi hành ngày một thêm gắt gao chính sách bế quan tỏa cảng và cấm đạo, giết đạo…Với những chính sách phản động nói trên, nước Việt Nam đã suy yếu về mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với các nước tư bản phương Tây
— Đinh Xuân Lâm[190]

Lý giải về thái độ đánh giá trên, giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cho rằng: “nguyên do sâu xa của vấn đề này là do bối cảnh chính trị của đất nước (Việt Nam) thời bấy giờ và cách vận dụng phương pháp luận sử học của các nhà nghiên cứu”… Bối cảnh chính trị của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945–1954) tất yếu dẫn đến thái độ tiêu cực và phê phán về nhà Nguyễn, triều đại từng để mất nước vào tay Pháp.

Nhà nghiên cứu Chu Giang tổng kết: nhà Nguyễn có một số công lao, nhưng có tội làm mất nước, đây là cái tội lớn nhất nên một số công lao của nhà Nguyễn cũng không thể bù đắp được. Mặt khác, cũng cần phân biệt rõ giữa thời kỳ “chúa Nguyễn” (có công mở mang bờ cõi) và thời kỳ “vương triều Nguyễn” (có lỗi làm đất nước trì trệ) để không lẫn lộn công – tội giữa 2 giai đoạn khác nhau này. Không phủ nhận nhà Nguyễn có những vị vua yêu nước và có công (Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân), nhưng cũng không thể phủ nhận có nhiều vua nhà Nguyễn đã cầu viện ngoại xâm, có tội với đất nước (Gia Long) hoặc hèn nhát đầu hàng, chấp nhận làm tay sai cho giặc Pháp (Tự Đức, Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại). Ai có công thì khen, ai có tội thì chê chứ không thể đánh đồng các vấn đề này với nhau, lấy công mở mang của cha ông (các chúa Nguyễn) để xóa tội cho con cháu (các vua Nguyễn đã cầu viện hoặc đầu hàng ngoại quốc) nhằm biện hộ cho nhà Nguyễn theo cảm tính như một số nhà sử học có tư tưởng “hoài niệm triều Nguyễn” hiện nay:[191]

Giáo sư Phan Huy Lê cho rằng công của Nguyễn Ánh là chính, tội chỉ là tỳ vết, là điểm mờ. Biện luận đó là đúng theo quan điểm của người Pháp, của con cháu nhà Nguyễn và phái “hoài niệm triều Nguyễn”. Nhưng xét trên bình diện quốc gia thì tội bán nước, đầu hàng ngoại bang là vô cùng nặng nề, công lớn bao nhiêu cũng không chuộc lại được.
Nguyễn Ánh khởi đầu hành động bán nước và đến đời các cháu, từ Tự Đức cho đến Bảo Đại, đã bán hoàn toàn, đầu hàng hoàn toàn. Nếu không có cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc giành lại độc lập, thống nhất thì giờ này có gì để mà nói nữa. Cho nên, các “chúa Nguyễn” có công mở cõi thì rõ rồi, không thể phủ nhận. Còn “vương triều Nguyễn” đã làm tổn hại quốc gia, làm chậm bước tiến của dân tộc. Đó là một thực thể lịch sử tồn tại hàng thế kỷ, là nguyên nhân của những diễn biến lịch sử dân tộc, không thể đặt ra ngoài lịch sử dân tộc. Nhưng nói đến, viết đến là để làm sáng tỏ bản chất của lịch sử, yếu tố quyết định trong vận động lịch sử dân tộc, khẳng định quy luật của lịch sử dân tộc. Cần phê phán các nhân vật, các yếu tố phản lịch sử, phản dân tộc của vương triều Nguyễn nhưng không đánh đồng với những vị vua yêu nước, chống ngoại xâm, đã chịu biết bao đau khổ, hi sinh trong cảnh tù đày như các Đức vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Các Hoàng thân quốc thích như Bửu Đình, Văn Tập, Nguyễn Minh Vỹ và biết bao nhiêu thế hệ con cháu nội ngoại của vương triều Nguyễn đã đứng vào hàng ngũ đấu tranh giải phóng dân tộc. Lý phải có tình, Tình phải có lý. Không thể biện luận lịch sử bằng chủ nghĩa tình cảm được.

Tại An Giang, người dân truyền tụng những câu ca dao phê phán rất thẳng thắn, rất gay gắt, chửi cả tông tộc nhà Nguyễn, từ vua khai quốc Gia Long đến vua cuối cùng Bảo Đại là “dòng Việt gian” vì hành động cầu viện ngoại xâm để giành ngôi vị[192]:

Bảo Đại là cháu Gia Long
Là con Khải Định, là dòng Việt gian
Gia Long cõng rắn cắn gà
Giầy mả ông bà, Bảo Đại rước voi
Ai ơi phải nhớ mấy lời
Đừng cho kẻ hại giống nòi mọc lên.

Nguyên nhân mất nước vào tay Pháp

Người dân Bắc Kỳ (Tonkinese) sụp lạy các binh sĩ Pháp năm 1884. Tranh vẽ trong cuốn La guerre du Tonkin (phát hành tại Paris, 1887) của L. Huard.
Có những quan điểm khác nhau về nghĩa vụ và trách nhiệm của những vua nhà Nguyễn đối với việc Nước Ta mất vào tay người Pháp .

Sự ngưng trệ của quốc gia và việc nhà Nguyễn mất lòng dân

Trong Việt Sử tân biên, Phạm Văn Sơn cho rằng Việt Nam mất vào tay thực dân Pháp là một tất yếu lịch sử, hoặc ít ra cũng do trình độ dân trí Việt Nam quá thấp kém so với người Pháp. Do nhà Nguyễn không thực hiện cải cách nên Việt Nam thời đó vẫn là nước nông nghiệp phong kiến trình độ lạc hậu, kém xa các nước phương Tây đã thực hiện công nghiệp hóa.[193][Ghi chú 4]

Tuy nhiên, Nguyễn Phan Quang cho rằng triều Nguyễn thua Pháp không phải là tất yếu mà do lúng túng về đường lối chính trị được bộc lộ qua mặt quân sự chiến lược và yếu tố tôn giáo và những xích míc nội bộ. [ 193 ] [ Ghi chú 5 ] Việc ngăn cấm Công giáo đồng nghĩa tương quan với việc ngăn ngừa phương Tây xuất hiện tại Nước Ta đã gây phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc bản địa và là nguyên do khiến phương Tây nổ súng xâm lược. [ Ghi chú 6 ] Suốt hơn 20 năm kể từ khi ký Hiệp ước Nhâm Tuất ( 1862 ), triều Nguyễn đã không hề xử lý xích míc giữa cải cách mới hoàn toàn có thể chống Pháp thành công xuất sắc và muốn chống Pháp thành công xuất sắc thì phải cải cách nên đã để mất dần chủ quyền lãnh thổ. [ Ghi chú 7 ] [ 184 ]Vấn đề thuế khóa cao, lao dịch nặng và đời sống khó khăn vất vả của người dân cũng khiến nhà Nguyễn mất lòng dân. Thời kỳ hai triều vua đầu tiên là Gia Long và Minh Mạng, quốc gia mới ra khỏi cuộc chiến tranh nên lẽ ra cần giảm thuế, miễn lao dịch để sức dân được Phục hồi. Nhưng Gia Long lại đánh thuế quá nặng và bắt dân chúng lao dịch quá nhiều, thuế khóa và lao dịch tăng lên gấp ba so với nhà Tây Sơn, [ 120 ] đồng thời kêu gọi hàng vạn dân phu để xây những khu công trình lớn như thành Phú Xuân và đào kênh Vĩnh Tế. Đến thời Minh Mạng thì lại phung phí ngân khố và nhân lực vào những chiến dịch quân sự chiến lược lớn ở Chân Lạp. Gánh nặng thuế khóa, lao dịch và cuộc chiến tranh đổ lên người dân khiến số cuộc nổi dậy của người dân vào thời kỳ đó nhiều hơn hẳn những triều đại trước .Theo Phan Huy Lê thì nguyên do mất nước của nhà Nguyễn là rất phong phú, từ tư duy bảo thủ của vua quan, khoa học kỹ thuật lỗi thời cho tới việc không thu được lòng dân, không nên quy nghĩa vụ và trách nhiệm cho duy nhất một nguyên do nào :

Việc Pháp đánh Việt Nam là một tất yếu khách quan; việc nhà Nguyễn để mất nước có phải là tất yếu khách quan hay không, đó là một dấu hỏi lớn, là chủ đề của nhiều hội thảo khoa học của nhiều thế hệ nhà sử học. Thực tế cho thấy không phải nhà Nguyễn buông súng từ đầu và không phải các hoàng đế nhà Nguyễn đều bạc nhược. Chúng ta có quyền nhìn nhận việc mất nước từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng nhìn từ góc độ nào thì nhà Nguyễn cũng phải chịu trách nhiệm về thảm họa mất nước.
— Nguyễn Khắc Thuận[196]

Giáo sư Nguyễn Phan Quang có quan điểm như sau :

Mất nước không phải là tất yếu… Triều Nguyễn thua Pháp vì lúng túng về đường lối chính trị dẫn đến lúng túng về quân sự, tuy quân lực không yếu mà tự phải thua. Sự lúng túng còn thể hiện trong nỗi lo sợ trước luồng tư tưởng mới đang tràn vào. Lo sợ, nhưng không có giải pháp hữu hiệu, đành thu mình đóng kín. Càng lúng túng hơn khi nhà Nguyễn đồng thời phải đối phó với những mâu thuẫn nội bộ rất nghiêm trọng, mà những mâu thuẫn này lại bị sự chi phối rất mạnh của các áp lực từ bên ngoài. Riêng đối với đạo Gia-tô thì triều Nguyễn đã từ lúng túng đi đến bế tắc, không đủ sức chuyển đổi tư duy để có biện pháp thích hợp.[193]

Gia Long lên ngôi là nhờ chiến thắng sau cuộc nội chiến với nhà Tây Sơn chứ không phải bằng một chiến thắng chống giặc ngoại xâm lẫy lừng như các vương triều trước. Sự lên ngôi không đủ chính danh là một trở lực không nhỏ trong việc cai trị. Ở Bắc Hà, nhiều sĩ phu, quan lại vẫn xem nhà Lê là chính thống, coi nhà Nguyễn là kẻ cướp ngôi. Tư tưởng “phò Lê” đã được dùng để kích thích các cuộc nổi dậy chống lại triều đình nhà Nguyễn ở miền bắc Việt Nam mãi tới mấy chục năm sau, như lời nhận xét của một người nước ngoài: “Cách xử sự của nhà vua mới (vua Gia Long) đối với triều đại nhà Lê đã bị truất ngôi mà ông ta hứa phục hồi làm cho người Đàng Ngoài ghét bỏ ông ta. Thuế má nặng nề và sự nhũng nhiễu của quan lại càng làm tăng thêm sự bất bình đến cực độ; do đó đã hình thành nên nhiều phe phái đứng đầu là những hậu duệ của các triều đại cũ đã từng trị vì xứ Đàng Ngoài trước đây”[197] Năm 1821, trong dịp tuần thú Bắc Hà, vua Minh Mạng ban chiếu kêu gọi các sĩ phu ra giúp triều đình, trông ngóng mãi mà không có ai, lại ra thêm chỉ dụ mời gọi cũng chỉ có vài người đến yết kiến. Nhà vua phải than rằng: “Trẫm nghe nói trong một ấp mười nhà tất có người trung tín. Huống chi bấy nhiêu địa hạt, đất rộng người đông, vốn có tiếng là văn học. Năm trước từng xuống chiếu tìm người tài giỏi giúp việc, đến nay chưa thấy ai hưởng ứng… Nay trẫm dừng chân ở Bắc Thành đã hàng tháng mà vẫn yên lặng không nghe gì…”[198]

Ở phía Nam thì nhiều người lại nhớ về nhà Tây Sơn. Hành động trả thù nhà Tây Sơn một cách thái quá của Nguyễn Ánh đã tạo ra những ấn tượng xấu, khiến lòng dân bị ảnh hưởng tác động, nhất là ở những nơi mà người dân còn dành nhiều tình cảm cho nhà Tây Sơn như Tỉnh Bình Định. Nhiều cuộc khởi nghĩa do những cựu tướng lĩnh của triều Tây Sơn chỉ huy đã nổ ra, rình rập đe dọa nghiêm trọng đến sự không thay đổi của quốc gia .Giáo sư Trần Văn Giàu đã tổng kết sự lỗi thời, ngưng trệ trong cách quản lý của nhà Nguyễn như sau : [ 199 ]

  • Tình trạng phân liệt, phân tranh kéo dài từ giữa thế kỷ 16 đến hết thế kỷ 18 đã làm suy thoái ý thức dân tộc và tư tưởng yêu nước truyền thống Việt Nam. Nhà Nguyễn viết sử với quan điểm hạ thấp chiến tích chống ngoại xâm của các triều đại trước, làm mất rất nhiều tác dụng giáo dục tư tưởng yêu nước, ý thức dân tộc đang lúc cần phải được phục hồi để đối đầu với kẻ xâm lược.
  • Nhà Nguyễn còn giữ mãi cái học, cái thi lạc hậu theo lối khoa bảng thời xưa, cho nên tinh thần thủ cựu, luôn cho rằng xưa hơn nay. Vào thế kỷ 19, bảo thủ là con đường chết. Triều đình cứ tranh luận việc có nên cải cách hay không, cuối cùng thì không làm gì cả. Ban đầu có mời chuyên gia phương Tây qua dạy kỹ thuật được ít tháng, cử người qua phương Tây học hỏi, nhưng được ít lâu đều dẹp bỏ hết.
  • Nhà Nguyễn thống nhất đất nước nhưng khi cai trị lại mất lòng dân. Triều Nguyễn tồn tại dài chưa đến 60 năm mà có tới 400 cuộc khởi nghĩa nông dân, trung bình một năm 7 cuộc (Đời Gia Long 33 cuộc, đời Minh Mạng 234 cuộc, đời Thiệu Trị (chỉ 7 năm) 58 cuộc, đời Tự Đức (chỉ tính đến năm 1862, nghĩa là trước khi Pháp chiếm 3 tỉnh Đông Nam kỳ) là 40 cuộc). Do đó, triều đình nhà Nguyễn không thể huy động sức mạnh nhân dân chống ngoại xâm được.
  • Triều đình không dự kiến cuộc xâm lăng từ phương Tây, không chuẩn bị sẵn sàng bảo vệ đất nước. Triều đình bỏ ra rất nhiều tiền bạc để xây lăng tẩm đồ sộ, xây dựng cung điện nguy nga nhưng không chịu bỏ tiền mua súng đạn do các tàu buôn nước ngoài đem tới chào bán. Việc trang bị vũ khí mới bị bỏ bê, vũ khí có trong kho thì bảo dưỡng kém. Quân đội Nhà Nguyễn khá đông nhưng trang bị chỉ nhằm chống nội loạn hơn là chống xâm lăng, vũ khí dư thừa để đánh dẹp nhân dân khởi nghĩa nhưng lại cực kỳ thô sơ khi so với vũ khí của các nước phương Tây.

Việc Gia Long từng cầu viện Pháp

Một nguyên do khác mà những nhà sử học Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ( 1945 – 1976 ) quy nghĩa vụ và trách nhiệm cho những vua Nguyễn đối với việc mất nước, đó là việc Nguyễn Ánh đã ” cõng rắn cắn gà nhà ” và Tự Đức đã ” bán rẻ quốc gia ” cho thực dân. [ 193 ]

Trong bài “Nên học sử ta”, Nguyễn Ái Quốc phê phán hành động cầu viện Pháp của Nguyễn Ánh trước đó 50 năm (ký Hiệp ước Versailles (1787) cắt đất cho Pháp, gửi con trai sang Pháp làm con tin để nhờ quân Pháp sang đánh nhà Tây Sơn) đã gián tiếp gây tai họa cho đất nước:[200]

“Trước khi vua Gia Long bán nước cho Tây, nước ta vẫn là nước độc lập. Vì muốn giành làm vua mà Gia Long đem nước ta bán cho Tây. Thế là giang san gấm vóc tan tác tiêu điều, con Lạc cháu Hồng hóa làm trâu ngựa”.

Về phía Pháp, sử gia Pháp cuối thế kỷ 19 là Gosselin cho rằng : [ 201 ]

Những vị hoàng đế nước Nam, bởi sự bội bạc đối với những người Pháp lẫy lừng đã làm quan cho Gia Long, mà nhờ họ, ông ta (Gia Long) mới có được ngai vàng; bởi sự tàn ác đối với những giáo sĩ đồng bào của chúng ta; bởi sự cứng đầu điên dại bế quan tỏa cảng; bởi sự khinh bỉ nền văn minh phương Tây, vì kiêu căng ngu muội, họ cho là man rợ; bởi sự kiên trì từ chối tiếp xúc với nước ngoài, trừ nước Tầu; những hoàng đế này, tôi bảo, phải chịu trách nhiệm sự suy đồi và sụp đổ của nước họ, phải gánh vác một mình, sự nhục nhã trước lịch sử.

Giáo sư Trần Văn Giàu đã tổng kết: Nhà Nguyễn lập nên bằng cầu viện quân sự nước ngoài, nên tính chính thống và uy tín kém hẳn so với các triều đại khác. Vì lợi ích cá nhân, lợi ích gia tộc, Gia Long đã phạm tội “cõng rắn cắn gà nhà, rước voi về giày mả tổ”. Gia Long ban đầu cầu viện Xiêm, được Xiêm giúp cho 3 vạn quân (có sách nói là 6 vạn), nhưng bị Tây Sơn đánh bại. Gia Long lại quay sang cầu viện Pháp, cam kết cắt đất Đà Nẵng và Côn Lôn để Pháp đồng ý cho quân sang đánh Tây Sơn, đó chính là Hiệp ước Versailles (1787). Cầu viện Pháp bằng Hiệp ước Versailles đã tạo thành một “nghiệp chướng” cho triều đình Nguyễn.[199]

Do nhiều yếu tố, đặc biệt quan trọng là cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 lật đổ Hoàng gia, nên nước Pháp đã không thi hành Hiệp ước Versailles 1787. Tuy nhiên, Hiệp ước Versailles do giám mục Bá Đa Lộc cầu viện Pháp mà có vẫn trở thành một di họa so với Nước Ta. Về sau, Pháp đã dựa vào hiệp ước này để làm cớ nhu yếu nhà Nguyễn cắt đất, và sau đó xâm lược Nước Ta vào năm 1858. Sau này tác giả Faure chép truyện Bá Đa Lộc, có nuối tiếc rằng nếu Hiệp ước thành sự thực thì Pháp hoàn toàn có thể chiếm Nước Ta sớm hơn mấy chục năm :

“Nếu lúc ấy Chính phủ Pháp sẵn sàng giúp ông Bá Đa Lộc thì ông ấy đã giúp cho nước Pháp hoàn thành cuộc bảo hộ ở An Nam ngay từ cuối thế kỷ 18, để sau khỏi phải dùng đến chiến sự mới xong công việc”.[202]

Nhà Nguyễn không có kế hoạch kháng chiến hài hòa và hợp lý

Nếu nghiên cứu và phân tích kỹ thì đúng là quân Pháp có trang bị vũ khí tiêu biểu vượt trội so với quân nhà Nguyễn, nhưng sự tiêu biểu vượt trội này không phải là quá lớn, và có những khó khăn vất vả mà quân Pháp thời đó không xử lý được :
Nhìn chung, quân Pháp có lợi thế về trang bị nhưng lại có điểm yếu kém về quân số, thời tiết và địa hình. Kết quả chiến đấu trong thực tiễn cho thấy quân Nước Ta trọn vẹn hoàn toàn có thể vượt mặt Pháp nếu dùng giải pháp hài hòa và hợp lý ( tập kích đêm hôm, phục kích, đặt bẫy … ). Tuy không có trận nào thắng to, nhưng quân Pháp vốn không đông, nên nhiều trận thắng nhỏ gộp lại cũng đủ làm quân Pháp tổn thất nặng. Nếu vua quan nhà Nguyễn biết hiệu triệu nhân dân, chi viện cho những nhóm nghĩa quân địa phương kiên trì kháng chiến, trường kỳ tiêu tốn sinh lực địch thì quân Pháp sẽ phải thấy khó mà rút về nước, và Nước Ta đã không mất nước. Tuy vậy, vua quan nhà Nguyễn không biết hiệu triệu nhân dân, vận dụng kế hoạch hài hòa và hợp lý và kiên trì kháng chiến ; cũng không hề biết tận dụng lợi thế về nhân lực và vật lực do cuộc chiến tranh diễn ra trên chủ quyền lãnh thổ Nước Ta. So ra thì trong Chiến tranh Đông Dương ( 1945 – 1954 ), Pháp còn có lợi thế trang bị lớn hơn nhiều, nhưng lần này thì Nước Ta lại thắng chứ không bại ( nhờ vận dụng kế hoạch hài hòa và hợp lý ) .Lúc bấy giờ, Ông Ích Khiêm là một trong số những quan lại không hài lòng về việc quân đội triều đình yếu kém, phải dựa vào quân Cờ đen ( một nhóm vũ trang từ Trung Quốc kéo sang ) để chống Pháp, đồng thời cũng chê trách những võ tướng bất lực, lúc hữu sự phải nhờ vào người Trung Quốc để đánh giặc. Ông có làm bài thơ trách [ 204 ]

Áo chúa cơm vua hưởng bấy lâu
Đến khi có giặc phải thuê Tàu
Từng phen võng giá mau chân nhẩy
Đến bước chông gai thấy mặt đâu
Tiền bạc quyên hoài dân xác mướp
Trâu dê ngày hiến đứa răng bầu
Ai ôi hãy chống trời Nam lại
Kẻo nữa dân ta phải cạo đầu[205]

Thái độ của vua quan nhà Nguyễn

Sự lỗi thời của nước Việt thời nhà Nguyễn là một nguyên do mất nước vào tay Pháp. Tuy nhiên, nguyên do này không phải là duy nhất, một nguyên do khác được nghiên cứu và phân tích tỉ mỉ là thái độ của vua quan nhà Nguyễn thời Tự Đức khi cho rằng đem quân đội đánh Pháp thì không có thời cơ thắng. Nhưng mặt khác họ lại chủ quan, cho rằng nước Pháp ở xa quá nên không hề chiếm trọn nước Việt, họ nghĩ rằng chỉ cần cắt đất 1 số ít nơi để Pháp lập hải cảng và truyền đạo, bồi thường chiến phí cho Pháp thì họ sẽ rút quân. Thế là chủ trương của nhà Nguyễn đi vào sự khiếp nhược : chỉ lo cắt đất cầu hòa với Pháp, khi có thời cơ cũng không dám dữ thế chủ động tiến công địch. Quân dân 1 số ít nơi tự tổ chức triển khai kháng chiến, thu được thắng lợi bắt đầu nhưng triều đình lại mặc kệ, không chi viện cũng không khen thưởng, nên sau đó cũng dần thất bại. Tiêu biểu như một số ít sự kiện : [ 199 ]

Tại Khiêm Lăng có tấm bia ở Bi đình nặng trên 20 tấn do Tự Đức tự dựng cho mình. Trong văn bia này Tự Đức tự trách mình về việc để mất nước vì thiếu sáng suốt mà mong yên ổn, không lo phòng bị từ phía biển Đông. Ông bất đắc dĩ phải đánh dẹp, nhưng càng đánh dẹp càng loạn. Những quan đại thần được sai đi bàn định điều ước lại “không hiểu vì lý do gì lại dễ dàng lập thành hòa nghị. Bỗng chốc đem cả nhân dân cùng đất đai của các triều nhọc nhằn gây dựng cho giặc hết…“. Tự Đức nhận trách nhiệm “không sáng suốt trong việc biết người, ấy là của ta; dùng người không đúng chỗ, cũng là tội của ta; hàng trăm việc không làm được; đều là tội của ta cả…“. Ông “nuốt nước mắt, đành chịu tội với tôn miếu và nhân dân“. Ông nói rằng “Ta thực sự một mai chết đi thì tự thẹn trí khôn không bằng con cáo“.[207][208]

Nhà sử học Phạm Văn Sơn nhận xét :

Khi suy bĩ, Gia Long biết cầu cứu nước Pháp, đã mục kích được dã tâm đế quốc của liệt cường Tây Phương trước thời của ngài và cả trong thời ngài, vậy mà không tìm nổi một kế sách giữ nước cho khỏi “Bạch họa”, chỉ biết “bế quan tỏa cảng”, các triều đại kế tiếp cũng chẳng sáng suốt hơn, làm gì mà không mất nước.[209]

Về phía Pháp, sử gia Gosselin nói rằng những nhà vua An Nam phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về sự đổ vỡ và xuống dốc của quốc gia họ. Dân xứ này, quan lại, binh lính xứng danh có được những vị vua có giá trị, có khí phách hơn thế. Chính quyền nhà Nguyễn đã mù quáng vì không dự liệu, không sẵn sàng chuẩn bị gì để chống trả cuộc xâm lăng của Pháp. [ 193 ]

“Những lời nguyền rủa dữ dội và những cơn phẫn nộ vô ích của Thiệu Trị, những than vãn bất lực và những lễ tế trời của Tự Đức bộc lộ những cố gắng tột độ của các quân vương yếu đuối như đàn bà này để chống lại sự tiến công của chúng ta (Pháp) trên vương quốc của họ”.

Trong bài thơ Lịch sử nước ta, quản trị Hồ Chí Minh đã phê phán :

Nay ta nước mất nhà tan

Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn.
Năm Tự Đức thập nhất niên,
Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây.
Hăm lăm năm sau trận này,
Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan,
Ngàn năm gấm vóc giang san,
Bị vua họ Nguyễn đem hàng cho Tây!
Tội kia càng đắp càng đầy,
Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng.

Các vua nhà Nguyễn

Trong 143 năm tồn tại kể từ khi thành lập năm 1802 đến khi sụp đổ 1945, nhà Nguyễn có 13 vị vua cai trị thuộc 7 thế hệ. Tính theo Đế hệ thi của Minh Mạng thì nhà Nguyễn chỉ truyền được đến chữ thứ 5 (Vĩnh) hết dòng thơ thứ nhất, tương đương với thế hệ thứ 5 kể từ các con Minh Mạng.

Thế phả những vua nhà Nguyễn

Chú thích: Các năm trong bảng là các năm trị vì của vị vua đó

Danh sách hậu duệ nhà Nguyễn ( sau 1945 )

Con cái vua Bảo Đại

Tính đến nay, hậu duệ của Triều đại Nguyễn gồm những con cháu của Vua Bảo Đại :

  1. Nguyễn Phúc Bảo Long (1936–2007)
  2. Nguyễn Phúc Phương Mai (sinh 1937-2021)
  3. Nguyễn Phúc Phương Liên (sinh 1938)
  4. Nguyễn Phúc Phương Dung (sinh 1942)
  5. Nguyễn Phúc Bảo Thăng (1943–2017)
  6. Nguyễn Phúc Phương Thảo (sinh 1946)
  7. Nguyễn Phúc Phương Minh (1949–2012)
  8. Nguyễn Phúc Bảo Ân (sinh 1953)
  9. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng (1954–1955)
  10. Nguyễn Phúc Bảo Sơn (1957–1987)
  11. Nguyễn Phúc Phương Từ

Xem thêm

Ghi chú

  1. ^ Việc sử dụng văn ngôn Trung Quốc trong những văn bản và thư từ khác với việc sử dụng mạng lưới hệ thống chữ Nôm tiếng Việt .
  2. ^

    Góp phần nhận thức về vai trò lịch sử của nhà Nguyễn (1802 – 1945), GS. Trần Thanh Đạm Báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 41 ngày 30 tháng 10 năm 2008 trích: “Nhiều tư liệu đã có hoặc mới phát hiện đã chứng minh rằng trong nửa thế kỷ XIX, đối với đất nước Việt Nam, nhà Nguyễn đã làm được không ít việc, và nhiều việc có thể được gọi là những thành tựu. Ví dụ: đối với sự nghiệp thống nhất đất nước, dù rằng việc này được khởi đầu từ phong trào Tây Sơn song việc thống nhất đang còn dở dang, thậm chí cuối thời Tây Sơn cũng đang có nguy cơ phân liệt. Chính Nguyễn Ánh đã hoàn thành công việc dở dang này, hoàn thành sự nghiệp thống nhất, kết thúc tình trạng đất nước chia hai, quy giang sơn về một mối.

  3. ^

    Góp phần nhận thức về vai trò lịch sử của nhà Nguyễn (1802 – 1945), GS. Trần Thanh Đạm Báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 41 ngày 30 tháng 10 năm 2008 trích: Một ví dụ thứ hai nữa có thể nhắc đến, đó là việc củng cố chủ quyền dân tộc. Dĩ nhiên, ở đây chủ quyền dân tộc thống nhất với vương quyền nhà Nguyễn. Triều Nguyễn từ Gia Long đến Minh Mạng đều lo củng cố vương quyền đồng thời củng cố chủ quyền dân tộc, chống mọi mưu toan vi phạm, xâm phạm từ bên ngoài và bên trong, kể cả bằng những biện pháp quyết liệt như trấn áp đạo Thiên chúa.

  4. ^ Nhà Nguyễn mất nước với Tây phương chỉ là vì văn minh nông nghiệp của Á Đông hết sức lạc hậu, yếu hèn, mà văn minh khoa học cùng cơ giới của phương Tây lại quá mạnh mà thôi,xem, xem Nhiều tác giả 2007, tr. 325 .
  5. ^ Mất nước không phải là tất yếu… Triều Nguyễn thua Pháp vì lúng túng về đường lối chính trị dẫn đến lúng túng về quân sự, tuy quân lực không yếu mà tự phải thua. Sự lúng túng còn thể hiện trong nỗi lo sợ trước luồng tư tưởng mới đang tràn vào. Lo sợ, nhưng không có giải pháp hữu hiệu, đành thu mình đóng kín. Càng lúng túng hơn khi nhà Nguyễn đồng thời phải đối phó với những mâu thuẫn nội bộ rất nghiêm trọng, mà những mâu thuẫn này lại bị sự chi phối rất mạnh của các áp lực từ bên ngoài. Riêng đối với đạo Gia-tô thì triều Nguyễn đã từ lúng túng đi đến bế tắc, không đủ sức chuyển đổi tư duy để có biện pháp thích hợp
  6. ^ Những chính sách cực đoan của nhà Nguyễn với Công giáo không hề xuất phát từ đầu óc kỳ thị tôn giáo thuần túy, mà chính xuất phát từ nhận thức giữa Công giáo với phương Tây là dấu nối như một thể đồng nhất. Vì thế, trong cách nhìn của triều Nguyễn, ngăn cấm Công giáo là ngăn chặn phương Tây hiện diện tại Việt Nam, chứ không phải ngăn cấm một tôn giáo đơn thuần. Tuy nhiên, cách làm của nhà Nguyễn đã phản tác dụng, gây phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân, tạo vết hằn lịch sử đau thương giữa lương và giáo, đồng thời khiến phương Tây có lý do nổ súng xâm lược và lợi dụng đồng bào có đạo trong suốt thời gian thống trị…Nguyễn Quang Trung Tiến. “Triều Nguyễn – cảm nhận đa chiều (kỳ 2)]”. Báo Đà Nẵng điện tử ….
  7. ^ Suốt hơn 20 năm kể từ khi ký Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), triều Nguyễn đã không thể giải quyết mâu thuẫn giữa các cải cách mới để có thể chống Pháp thành công và muốn chống Pháp thành công thì phải cải cách; vì thế, triều Nguyễn đã để mất dần lãnh thổ và phải lần lượt ký kết nhiều hiệp ước bất bình đẳng với thực dân Pháp. Sự bế tắc này dễ làm người ta liên tưởng vua Tự Đức và triều đình Huế đã theo đuổi một đường lối chống Pháp nhu nhược, thỏa hiệp, cuối cùng chấp nhận đầu hàng giặc.
    Hai hiệp ước Harmand (ngày 25 tháng 8 năm 1883) và Patenôtre (ngày 6 tháng 6 năm 1884) do triều Nguyễn ký kết với Pháp diễn ra sau ngày vua Tự Đức mất, nhưng đó là kết quả khó tránh khỏi của một kế sách dùng dằng, bế tắc của người tiền nhiệm theo Nguyễn Quang Trung Tiếntheo Nguyễn Quang Trung Tiến

Chú thích

Tham khảo

Đọc thêm

  • Tài liệu lưu trữ Hán – Nôm, do Nha Kinh lược Bắc Kỳ biên soạn. Khối tài liệu này là một trong những nguồn sử liệu gốc có thể phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử về các mặt chính trị, kinh tế, an ninh trật tự, giao thông, tổ chức bộ máy nhà nước, văn hóa xã hội… thời kỳ phong kiến triều Nguyễn. Nó đang được lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.

Liên kết ngoài

Tiền nhiệm:
Nhà Tây Sơn
Triều đại Việt Nam
1802-1945
Kế nhiệm:
chế độ phong kiến sụp đổ
Alternate Text Gọi ngay