Triệu Vũ Vương – Wikipedia tiếng Việt
Triệu Vũ Đế (chữ Hán: 趙武帝, 257 TCN hoặc 235 TCN – 137 TCN), húy Triệu Đà (chữ Hán: 趙佗), là vị vua đầu tiên của nước Nam Việt, án ngữ tại Quảng Đông và miền bắc Việt Nam. Ông vốn là người Trung Quốc, quê ở huyện Chân Định (真定), quận Hằng Sơn (恒山) (ngày nay là huyện Chính Định (正定), tỉnh Hà Bắc), miền Bắc Trung Quốc.[1]
Triệu Đà là võ tướng theo lệnh Tần Thủy Hoàng dẫn quân xuống chinh phạt miền Nam ( khi đó là chủ quyền lãnh thổ của những bộ tộc Bách Việt ). Ông chiếm được những vùng nay là Quảng Đông, Quảng Tây. Triệu Đà cũng xin Tần Thủy Hoàng di dân 50 vạn người từ Nước Trung Hoa đến vùng này nhằm mục đích đồng điệu người địa phương theo văn hóa truyền thống Trung Quốc ( ngày này gọi là chủ trương ” Hán hóa ” ). Năm 210 TCN, nhà Tần ở Trung Quốc diệt vong, nhận thấy triều đình trung ương đã sụp đổ, Triệu Đà bèn tách ra cát cứ, xưng đế và lập nên nước Nam Việt và quản lý suốt quy trình tiến độ 207 – 137 TCN [ 1 ]. Năm 179 TCN, Nam Việt lấn chiếm thành công xuất sắc nước Âu Lạc của An Dương Vương .
Sau khi nhà Hán đã làm chủ Trung Hoa, khi về già, Triệu Đà đã quyết định bỏ việc xưng đế, quy phục nhà Hán (nhưng vẫn xưng Hoàng đế ở trong Nam Việt). Triệu Đà viết thư nhờ Lục Giả gửi cho vua Hán, trong thư ông đã xác nhận rằng mình là người Trung Hoa, và nhà Triệu là chư hầu phục vụ cho nhà Hán, thay mặt vua Hán để cai trị dân “Man Di” phía Nam (chỉ người Việt thời đó).[2]
Thời phong kiến, các nhà sử học Việt Nam đề cao thuyết Thiên mệnh của Nho giáo (cho rằng ngôi vua là do “Trời định”, còn xuất thân của vua không quan trọng) nên nhìn nhận Triệu Đà là vua Việt Nam. Đến thời hiện đại, các nhà sử học đề cao chủ quyền dân tộc, vua phải là người đại diện cho dân tộc, nên quan niệm thời phong kiến bị bác bỏ và Triệu Đà được coi là kẻ xâm lược (vì Triệu Đà vốn là người Trung Hoa, theo lệnh Tần Thủy Hoàng sang xâm chiếm nước Việt và ông ta còn tìm cách “Hán hóa” người Việt).
Bạn đang đọc: Triệu Vũ Vương – Wikipedia tiếng Việt
Sách Đại Việt sử ký toàn thư dẫn lại ghi chép của Sử ký Tư Mã Thiên, theo đó Triệu Đà vốn người huyện Chân Định ( 真定 ), Q. Hằng Sơn ( 恒山 ), đời nhà Tần ( ngày này là huyện Chính Định ( 正定 ), tỉnh Hà Bắc ), Trung Quốc [ 1 ] .Triệu Đà là tướng của nhà Tần, được lệnh Tần Thủy Hoàng đem quân đánh xuống phía Nam, lan rộng ra chủ quyền lãnh thổ cho nhà Tần. Khi nhà Tần sụp đổ, Triệu Đà khi đó đang làm quan quản lý ở phía Nam ( nay là tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ). Nhân thời cơ Nước Trung Hoa rối loạn, Triệu Đà tự xưng vương để lập nên nước Nam Việt, trị vì khoảng chừng từ năm 207 TCN đến năm 137 TCN, xưng là Nam Việt Vũ Vương hay là Nam Việt Vũ Đế .
Năm mất của Triệu Đà được các nguồn sử liệu thống nhất là 137 TCN. Về năm sinh của Triệu Đà, các nguồn tài liệu đề cập khác nhau. Đại Việt sử ký toàn thư của sử thần Ngô Sĩ Liên chép rằng ông sinh năm 258 TCN, tức là thọ 121 tuổi.[3]
Các nhà nghiên cứu hiện nay lại căn cứ theo một dòng trong Hán thư của Ban Cố cho biết ông tham gia nam chinh từ năm 20 tuổi[cần dẫn nguồn] và đó là thời điểm 13 năm trước khi Lưu Bang thành lập nhà Hán (202 TCN), tức là ông sinh năm 235 TCN và tham gia nam chinh từ năm 215 TCN, năm 214 TCN được Tần Thủy Hoàng phong huyện lệnh Long Xuyên.[4] Theo giả thuyết này, Triệu Đà thọ 99 tuổi.
Những Nội Dung Chính Bài Viết
- Bình định đất Lĩnh Nam[sửa|sửa mã nguồn]
- Ly khai nhà Tần[sửa|sửa mã nguồn]
- Chinh phục Âu Lạc, lên ngôi vua nước Nam Việt[sửa|sửa mã nguồn]
- Thần phục nhà Hán[sửa|sửa mã nguồn]
- Xưng đế chống Hán[sửa|sửa mã nguồn]
- Lại thần phục nhà Hán[sửa|sửa mã nguồn]
- Ảnh hưởng lịch sử vẻ vang[sửa|sửa mã nguồn]
- Tranh luận về vai trò của nhà Triệu và nước Nam Việt[sửa|sửa mã nguồn]
- Những khu vực gắn với Triệu Đà[sửa|sửa mã nguồn]
- Tên đường phố, địa điểm, tàu hải cảnh[sửa|sửa mã nguồn]
- Trên phương tiện đi lại tiếp thị quảng cáo đại chúng[sửa|sửa mã nguồn]
- Niên đại và tư liệu[sửa|sửa mã nguồn]
- Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Bình định đất Lĩnh Nam[sửa|sửa mã nguồn]
Bản đồ các khu vực lẻ tẻ do nhà Tần chiếm được của các nhóm tộc Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử sau năm 210 TCN.
Bản đồ vùng đất Lĩnh Nam thời Trưng Vương (40-43 sau Công nguyên).
Sau khi thống nhất bảy nước, Tần Thủy Hoàng bắt tay bình định vùng đất Bách Việt ở Lĩnh Nam .Năm 218 trước Công Nguyên, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư ( 屠睢 ) [ 5 ] làm chủ tướng, chỉ huy 50 vạn quân đi bình định miền Lĩnh Nam. Khi Đồ Thư chiếm được vùng đất Lĩnh Nam, Tần Thủy Hoàng lập nên ba Q. là Nam Hải ( Quảng Đông ), Quế Lâm ( đông bắc Quảng Tây ) và Tượng Q.. Đồ Thư chiếm được nhiều đất đai nhưng ở đầu cuối bị tử trận .Tần Thủy Hoàng sai Nhâm Ngao ( 壬嚣 ) [ 6 ] cùng Triệu Đà đến quản lý vùng Lĩnh Nam. Nhâm Ngao làm Quận úy Q. Nam Hải. Nam Hải gồm bốn huyện Bác La, Long Xuyên, [ 7 ] Phiên Ngung và Yết Dương ; trong đó huyện Long Xuyên có vị trí quan trọng nhất về địa lý và quân sự chiến lược, được giao dưới quyền Triệu Đà làm Huyện lệnh .
Giếng Việt Vương ở huyện Long Xuyên, TP. Hà Nguyên, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, tương truyền được đào bởi Triệu Đà khi ông còn làm Huyện lệnh Long Xuyên.
Sau khi tới thủ phủ Long Xuyên nhậm chức, Triệu Đà vận dụng chủ trương ” hòa tập Bách Việt ” đồng thời xin Tần Thủy Hoàng di dân 50 vạn người từ Cafe Trung Nguyên đến vùng này, tăng cường chủ trương ” Hoa Việt dung hợp ” ( hòa lẫn người Hoa Hạ và người Lĩnh Nam ) .Ly khai nhà Tần[sửa|sửa mã nguồn]
Tần Thủy Hoàng chết ( 210 TCN ), Tần Nhị Thế nối ngôi, khởi nghĩa Trần Thắng, Ngô Quảng nổ ra năm 209 TCN, rồi tiếp theo là cuộc chiến tranh Hán-Sở giữa Lưu Bang và Hạng Vũ ( từ năm 206 TCN ), Cafe Trung Nguyên rơi vào cảnh rối ren loạn lạc .
Tượng Triệu Đà, phía trước Nhà ga đường sắt Hà Nguyên
Năm 208 TCN, Quận úy Nam Hải là Nhâm Ngao bị bệnh nặng, trước khi chết cho gọi Triệu Đà đang trong thời điểm tạm thời làm Huyện lệnh Long Xuyên đến, dặn dò đại ý rằng :
- Vùng đất Nam Hải có núi chắn, có biển kề, rất thuận lợi cho việc dựng nước và phòng thủ chống lại quân đội từ Trung Nguyên (tức khu vực trung ương Trung Quốc) đánh xuống,
và đồng thời chính thức chỉ định Triệu Đà nối quyền quản lý Q. Nam Hải .Không lâu, Nhâm Ngao chết, Triệu Đà gửi lệnh đến quan quân những cửa ngõ Lĩnh Nam, canh giữ phòng chống quân đội Trung nguyên xâm phạm, và nhân ngày đó, giết hết những quan lại nhà Tần chỉ định ở Lĩnh Nam, cho tay chân của mình thay vào những chức vụ đó .
Chinh phục Âu Lạc, lên ngôi vua nước Nam Việt[sửa|sửa mã nguồn]
Bản đồ nước Nam Việt
Sử sách ghi chép không thống nhất về việc Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc, cả về cách đánh lẫn thời hạn và địa lý .Sử ký Tư Mã Thiên ghi chép vắn tắt rằng Triệu Đà dùng tài ngoại giao và đút lót mua chuộc các thủ lĩnh người Mân Việt, Tây Âu Lạc mà thu phục các vùng này vào thời điểm “sau khi Lã hậu chết” (năm 180 TCN). Các sách giáo khoa tại Việt Nam hiện nay đều thống nhất lấy thời điểm ước lệ này trong Sử ký và lấy năm ngay sau 180 TCN là 179 TCN (Xem mục về Niên đại và tư liệu ở dưới).
Lần xâm phạm tiên phong, Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên Du ( thuộc tỉnh Thành Phố Bắc Ninh ngày này ) giao chiến với An Dương Vương bị thất bại và bỏ chạy. Sau này, nhờ sự trợ giúp của những thủ lĩnh làm nội gián cung ứng thông tin bí hiểm về bố phòng quân sự chiến lược và map địa lý của Âu Lạc, Triệu Đà liên tục thực thi thủ đoạn xâm lược .
Theo truyền thuyết ghi rằng Triệu Đà lập mưu gả con trai là Trọng Thủy cho con gái An Dương Vương là Mỵ Châu để trộm nỏ thần và bản đồ Loa Thành. Sau khi kết thông gia, cả hai lập ranh giới từ sông Bình Giang (nay là sông Đuống) trở lên phía Bắc thuộc quyền cai trị của Triệu Đà, trở về phía Nam thuộc quyền cai trị của An Dương Vương.[8] Cần lưu ý là truyền thuyết này không có bất cứ bằng chứng lịch sử nào. Theo truyền thuyết thì nỏ thần của thần Kim Quy không hoạt động nữa sau khi bị lấy cái móng thần làm lẫy [9]. Nếu nỏ sát thương cao có thật thì không thể hiệu quả chỉ dựa trên cái lẫy, và không thể chỉ hiệu quả đối với một cái nỏ duy nhất. Ngoài ra, trong số 436 người được khắc trên các trống đồng có 175 người cầm vũ khí (40,1%). Các loại vũ khí gồm: giáo, rìu, cung, dao găm và mộc, không có nỏ [10].
Năm 208 TCN, Triệu Đà đánh thắng Âu Lạc của An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Q. Nam Hải, lập nước Nam Việt. Theo truyền thuyết thần thoại của người Việt, sau khi nghe tin Mỵ Châu bị An Dương Vương giết, Trọng Thủy nhảy xuống giếng tự vẫn để trọn tình với vợ là Mỵ Châu .Năm 207 TCN, Triệu Đà cất quân đánh chiếm Q. Quế Lâm, Tượng Q. ; tự xưng ” Nam Việt Vũ Vương ” .Năm 206 TCN, nhà Tần diệt vong .Nước Nam Việt bấy giờ, gồm có từ núi Nam Lĩnh, [ 11 ] phía tây đến Dạ Lang, [ 12 ] phía nam đến dãy Hoành Sơn, [ 13 ] phía đông đến Mân Việt. [ 14 ] Thủ đô nước Nam Việt lúc ấy là thành Phiên Ngung ( thành phố Quảng Châu Trung Quốc thời nay ) .Một số tài liệu điều tra và nghiên cứu thời nay cho rằng vùng đất miền Bắc Nước Ta giờ đây nằm trong Q. Tượng ( 象郡 ) của nước Nam Việt lúc đó .
Thần phục nhà Hán[sửa|sửa mã nguồn]
Trải qua chinh chiến, Lưu Bang đã lập được chính quyền nhà Tây Hán (202 TCN), bình định Trung Nguyên, bao gồm cả thế lực thu phục được của Hạng Vũ. Lưu Bang quyết định không lấy chiến tranh đối phó với nước Nam Việt để dân chúng Trung nguyên khỏi mất người mất của sau bao năm loạn lạc.
Năm 196 TCN, Hán Cao Tổ Lưu Bang sai quan đại phu Lục Giả đi sứ đến nước Nam Việt khuyên Triệu Đà quy phục nhà Hán .
Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép:
- Vũ Vương vốn là người kiêu căng, có ý không muốn phục nhà Hán, đến khi Lục Giả sang đến nơi, vào yết kiến Vũ Vương, Vũ Vương ngồi xếp vành tròn, không đứng dậy tiếp. Lục Giả thấy vậy mới nói rằng: “Nhà vua là người nước Tần, mồ mả và thân thích ở cả châu Chân Định. Nay nhà Hán đã làm vua thiên hạ, sai sứ sang phong vương cho nhà vua, nếu nhà vua kháng cự sứ thần, không làm lễ thụ phong, Hán đế tất là tức giận, hủy hoại mồ mả và giết hại thân thích của nhà vua, rồi đem quân ra đánh thì nhà vua làm thế nào?” Vũ Vương nghe lời ấy vội vàng đứng dậy làm lễ tạ, rồi cười mà nói rằng: “Tiếc thay ta không được khởi nghiệp ở nước Tần, chứ không thì ta cũng chẳng kém gì Hán Đế!”
Được Lục Giả khuyên, Triệu Đà chịu nhận ấn tước Nam Việt Vương ( chúa đất vùng Nam Việt ) của Hán Cao Tổ gửi, thần phục nhà Hán, đưa Nam Việt thành một nước chư hầu ( nhưng chỉ trên danh nghĩa ) của nhà Hán. Từ đó, Nam Việt và nhà Hán trao đổi sứ giả và kinh doanh. Lưu Bang đã lấy tự do mà quy phục Triệu Đà, không còn mối lo thế lực chống đối nhà Hán ở miền nam nữa .
Xưng đế chống Hán[sửa|sửa mã nguồn]
Hán Cao Tổ Lưu Bang và Hán Huệ Đế Lưu Doanh chết đi, Lã Hậu nắm quyền, khởi đầu gây sự với Triệu Đà. Lã Hậu ra lệnh cấm vận với nước Nam Việt. Triệu Đà thấy Lã Hậu hoàn toàn có thể qua nước Trường Sa [ 15 ] mà thôn tính Nam Việt. Thế là Triệu Đà bèn công bố độc lập trọn vẹn khỏi nhà Hán, tự xưng ” Nam Việt Vũ Đế ” và cất quân đánh nước Trường Sa, chiếm được mấy huyện biên giới của Trường Sa mới chịu thôi .Lã Hậu bèn sai đại tướng Long Lư hầu là Chu Táo đi đánh Triệu Đà. Quân lính Cafe Trung Nguyên không quen khí hậu oi bức và ẩm thấp miền nam, ùn ùn đổ bệnh, ngay dãy núi Ngũ Lĩnh cũng chưa đi qua nổi. Một năm sau, Lã Hậu chết, mưu đồ đánh Triệu Đà của quân nhà Hán bỏ hẳn .Lúc đó Triệu Đà dựa vào tiếng tăm tài quân sự chiến lược của mình lừng lẫy cả vùng Lĩnh Nam, lại nhờ tài hối lộ của cải, làm cả Mân Việt và phía Tây nước Âu Lạc cũ ùn ùn quy thuộc Nam Việt. Lúc ấy nước Nam Việt bành trướng đến mức cực thịnh. Triệu Đà mở màn lấy tên uy Hoàng Đế mà ra lệnh ra oai, thanh thế ngang ngửa trái chiều với nhà Hán .
Lại thần phục nhà Hán[sửa|sửa mã nguồn]
Năm 180 TCN, Lã Hậu chết, Hán Văn Đế Lưu Hằng nối ngôi .Năm 179 TCN, vua Hán sai người tu sửa mồ mả cha ông Triệu Đà, cắt đặt hàng năm đúng ngày thờ cúng, ban thưởng chức vụ và của cải cho bà con Triệu Đà còn ở trong đất Hán. Nghe thừa tướng Trần Bình tiến cử, Lưu Hằng sai Lục Giả, người từng được Hán Cao Tổ sai sứ đi Nam Việt nhiều lần, làm chức Thái Trung Đại Phu, lại đi thuyết phục Triệu Đà quy Hán. Lục Giả đến Nam Việt, lại trổ tài thuyết phục Triệu Đà. Triệu Đà nghe thuyết phục phải trái hơn thiệt, quyết định hành động bỏ thương hiệu Đế, quy phục nhà Hán ( nhưng vẫn tiếm hiệu xưng Hoàng Đế ở trong nước Nam Việt ). Nhân đó, Triệu Đà viết thư nhờ Lục Giả gửi cho vua Hán, rằng :
“ Man Di đại trưởng lão phu, thần Đà, mạo muội đáng chết, hai lạy dâng thư lên Hoàng đế bệ hạ. Lão phu vốn là lại cũ ở đất Việt, Cao Đế ban cho ấn thao làm Nam Việt Vương. Hiếu Huệ Hoàng Đế lên ngôi, vì nghĩa không nỡ tuyệt nên ban cho lão phu rất hậu. Cao Hậu lên coi việc nước lại phân biệt Hoa – Di, ra lệnh không cho Nam Việt những khí cụ làm ruộng bằng sắt và đồng; ngựa, trâu, dê nếu cho thì cũng chỉ cho con đực, không cho con cái. Lão phu ở đất hẻo lánh, ngựa, trâu, dê đã già. Tự nghĩ nếu không sắm lễ vật cúng tế, thì tội thực đáng chết, mới sai quan Nội sử (內使) là Phan (潘), quan Trung úy (中尉) là Cao (高), quan Ngự sử (御史) là Bình (平), ba bọn dâng thư tạ lỗi, nhưng đều không thấy trở về. Lại nghe đồn rằng, phần mộ của cha mẹ lão phu bị đập phá, anh em họ hàng đều bị giết. Vì vậy, bọn lại bàn nhau rằng: “Nay bên trong không được phấn chấn với nhà Hán, bên ngoài không lấy gì để tự cao khác với nước Ngô”. Vì vậy mới đổi xưng hiệu là Đế, để tự làm Đế nước mình, không dám làm điều gì hại đến thiên hạ. Cao Hoàng Hậu nghe tin cả giận, tước bỏ sổ sách của Nam Việt, khiến cho việc sai người đi sứ không thông. Lão phu trộm ngờ là vì Trường Sa Vương gièm pha, cho nên mới đem quân đến đánh biên giới. Lão phu ở đất Việt 49 năm, đến nay đã ẵm cháu rồi, những vẫn phải dậy sớm, ngủ muộn, nằm không yên chiếu, ăn không biết ngon, mắt không trông sắc đẹp, tai không nghe tiếng chuông trống, chỉ vì không được làm tôi nhà Hán mà thôi. Nay may được bệ hạ có lòng thương đến, được khôi phục hiệu cũ, cho thông sứ như trước, lão phu dù chết xương cũng không nát. Vậy xin đổi tước hiệu, không dám xưng Đế nữa. Kính cẩn sai sứ giả dâng một đôi ngọc bích trắng, 1.000 bộ lông chim trả, 10 sừng tê, 500 vỏ ốc màu tía, 1 giỏ cà cuống, 40 đôi chim trả sống, 2 đôi chim công. Mạo muội liều chết, hai lạy dâng lên Hoàng đế bệ hạ.[2] ” Kể từ đó đến đời Hán Cảnh Đế, Triệu Đà một mực xưng thần, hàng năm cứ mùa Xuân và mùa Thu, đều đưa đoàn sứ đến Trường An triều cống hoàng đế nhà Hán, chịu mệnh lệnh làm chư hầu (trên danh nghĩa) của nhà Hán. Năm 137 TCN, Nam Việt Vương Triệu Đà qua đời, sống được ước chừng hơn trăm tuổi (theo Đại Việt Sử ký Toàn thư là 121 tuổi), chôn ở Phiên Ngung (tức thành phố Quảng Châu ngày nay).
Triệu Đà chết đi, con cháu liên tục được bốn đời vua Nam Việt, cho đến năm 111 trước Công Nguyên mới bị nhà Hán chiếm .
Ảnh hưởng lịch sử vẻ vang[sửa|sửa mã nguồn]
Triệu Đà vốn là quan võ của nhà Tần, rồi được Tần Thủy Hoàng chỉ định làm Huyện lệnh huyện Long Xuyên trong Q. Nam Hải mà Nhâm Ngao làm Quận úy. Triệu Đà lập nên nước Nam Việt, độc lập với nhà Tần, quản lý nước Nam Việt 67 năm, từ năm 203 trước Công nguyên tới năm 137 trước Công nguyên, rồi truyền ngôi cho cháu là Triệu Muội. Triệu Đà thực thi chủ trương ” hòa tập Bách Việt ” nhằm mục đích thống nhất những bộ tộc Bách Việt và chủ trương ” Hoa – Việt dung hợp ” nhằm mục đích đồng nhất dân người Hoa và Lĩnh Nam tại chủ quyền lãnh thổ nước Nam Việt .Theo khảo sát dân số thì cuối thời Nam Việt, cả nước này có 1,3 triệu dân, trong đó có khoảng chừng 100 ngàn người Hoa di cư từ phía Bắc. Tuy chỉ chiếm tỷ suất nhỏ nhưng người Hoa nắm giữ hầu hết chức vụ chủ chốt trong triều đình Nam Việt. [ 16 ] Về sau triều đình có tuyển thêm người bản xứ như Lữ Gia, nhưng số lượng này vẫn rất ít, và cũng chỉ tuyển những người tinh thông chữ Hoa, biết nói tiếng Hoa ( tức là đã ” Hán hóa ” ) mà thôi. Như vậy cho thấy nhà Triệu vẫn coi mình là triều đại của người Hoa, không coi người Việt là ngang hàng với người Hoa .
Tranh luận về vai trò của nhà Triệu và nước Nam Việt[sửa|sửa mã nguồn]
Nhà Triệu là một triều đại, hay một tiến trình lịch sử vẻ vang gây nhiều tranh luận cho giới nghiên cứu và điều tra sử học Nước Ta. Sử học Nước Ta từ trước đến nay đều có hai quan điểm trái ngược nhau :
- Triệu Vũ Đế đánh bại An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt là chuyện nội bộ nước Việt, nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam. Nhà Triệu mất là khởi đầu thời kỳ Bắc thuộc.
- Triệu Đà là người phương Bắc, quê quán ở Trung Nguyên (nay là tỉnh Hà Bắc, thuộc lưu vực sông Hoàng Hà ở Trung Quốc)[17] theo lệnh Tần Thủy Hoàng đem di dân người Hoa Hạ (sau này gọi là người Hán) xuống vùng Lĩnh Nam (là nơi cư trú của các bộ tộc Bách Việt) và được làm Huyện lệnh Long Xuyên quận Nam Hải mới khai hoá, khi nhà Tần mất thì mới tách ra cát cứ, do đó Triệu Đà là kẻ ngoại bang đến xâm lược nước Âu Lạc. An Dương Vương mất nước là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc.
Xoay quanh yếu tố Triệu Đà và nhà Triệu, mấu chốt là thế giới quan nhìn nhận của nhà sử học. Những người tôn vinh thuyết Thiên mệnh của Nho giáo ( cho rằng ngôi vị là do ” Trời định “, ai xưng đế ở vùng đất nào thì nghiễm nhiên được coi là vua, nắm giữ ” Thiên Mệnh ” của vùng đất đó, bất kể xuất thân thuộc dân tộc bản địa nào ) thì sẽ nhìn nhận Triệu Đà là vua Nước Ta, đây là cách nhìn của nhiều sử gia Việt Nam thời phong kiến .trái lại, những nhà sử học có tư duy nhấn mạnh vấn đề chủ quyền lãnh thổ vương quốc – đặc tính dân tộc bản địa, coi trọng nguồn gốc xuất thân, tính dân tộc bản địa của người đứng đầu chính quyền sở tại, thực chất của cỗ máy triều đình và không công nhận thuyết ” Thiên Mệnh ” thì sẽ coi Triệu Đà là triều đại lấn chiếm của phương Bắc ( bởi Triệu Đà vốn là người Trung Quốc, quan lại nước Nam Việt hầu hết là người Nước Trung Hoa, ngôn từ và thể chế cung đình cũng là Trung Quốc, còn người Việt chỉ là đối tượng người tiêu dùng bị quản lý ). Đây là cách nhìn của những sử gia thời văn minh .
Những khu vực gắn với Triệu Đà[sửa|sửa mã nguồn]
Tên đường phố, địa điểm, tàu hải cảnh[sửa|sửa mã nguồn]
Nhiều nơi ở miền Bắc Nước Ta và miền Nam Trung Quốc có đền miếu thờ cúng ông :
Trên phương tiện đi lại tiếp thị quảng cáo đại chúng[sửa|sửa mã nguồn]
Phim truyền hình[sửa|sửa mã nguồn]
Dưới đây là list những bộ phim truyền hình nói về / có đề cập đến Triệu Vũ Vương và nước Nam Việt :
Niên đại và tư liệu[sửa|sửa mã nguồn]
Về thời hạn xây dựng nước Nam Việt[sửa|sửa mã nguồn]
Những mốc năm tháng Triệu Đà lập nước Nam Việt đều không có sử sách ghi chép lại. Tư liệu ngày nay chỉ căn cứ vào cuốn Sử ký của Tư Mã Thiên mà suy luận ra. Trước mắt có ba thuyết Triệu Đà lập nước Nam Việt: một thuyết cho rằng đó là năm 203 TCN [28], thuyết thứ hai cho rằng vào năm 204 TCN [29] Riêng sách Đại Việt sử ký toàn thư của sử thần Ngô Sĩ Liên thời Hậu Lê cho rằng Triệu Đà sáp nhập quận Quế Lâm và nước Âu Lạc vào quận Nam Hải, lập nên nước Nam Việt vào năm 207 TCN.
Về thời hạn chinh phục Âu Lạc[sửa|sửa mã nguồn]
Như đã đề cập trong phần sự nghiệp của Triệu Đà, các nguồn sử liệu xưa không thống nhất về thời điểm nước Âu Lạc bị chinh phục. Giữa các sách cổ sử của Việt Nam (năm 207 TCN) và Sử ký của Tư Mã Thiên (khoảng 179 TCN) chênh lệch nhau tới gần 30 năm. Không rõ các sử gia phong kiến Việt Nam căn cứ vào nguồn tư liệu nào và cũng không có sự lý giải, kết luận thỏa đáng của các sử gia đương đại đối với vấn đề này.
Các sách giáo khoa tại Việt Nam hiện nay căn cứ theo tư liệu của Sử ký để lấy năm 179 TCN. Có lẽ vì Sử ký ra đời chỉ một vài chục năm sau khi nước Nam Việt mất nên đây được coi là nguồn tài liệu đáng tin cậy hơn.
Về cái chết của Trọng Thủy[sửa|sửa mã nguồn]
Trọng Thủy là con trai Triệu Đà, không được Sử ký đề cập đến. Tên của Trọng Thủy chỉ được nhắc đến trong các sách sử và truyền thuyết của Việt Nam. Tuy nhiên, giữa các tài liệu này cũng có những điểm dị biệt.
Sử cũ theo cách nói của truyền thuyết về chuyện nỏ thần và việc làm rể của Trọng Thủy nhằm đánh cắp nỏ thần, quyết định việc mất còn của Âu Lạc. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép y nguyên như truyền thuyết cho rằng sau khi chiếm được Âu Lạc, Thủy thấy vợ chết bèn chết theo. Tuy nhiên, cũng Đại Việt Sử ký Toàn thư, lại chép con Thủy là Triệu Hồ nối ngôi Triệu Đà năm 137 TCN, Hồ chết năm 125 TCN thọ 52 tuổi, tức là sinh năm 176 TCN, sau khi Thủy chết tới 33 năm. Như vậy các sử gia phong kiến đã nhầm lẫn tình tiết này.
Dù theo thuyết của Sử ký cho rằng phía Tây nước Âu Lạc mất năm 179 TCN đi nữa thì khoảng cách giữa khi Trọng Thủy chết với thời gian Triệu Hồ sinh ra vẫn là bốn năm. Các nguồn tài liệu có nhắc đến Thủy (trừ Sử ký) đều nói Hồ là con Thủy nhưng không nhắc đến người con trai nào khác của Triệu Đà. Do đó, việc các nhà nghiên cứu nghi ngờ Trọng Thủy chết theo vợ là hoàn toàn có cơ sở. Có lẽ đó là lý do khiến sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (viết sau Đại Việt Sử ký Toàn thư) chỉ nhắc tới việc Trọng Thủy làm rể mà không nhắc tới việc Thủy chết theo Mỵ Châu. Cũng có thể sau khi về nước và sinh ra Triệu Hồ thì Trọng Thủy mới tự sát. Như vậy Trọng Thủy phải còn sống ít nhất đến năm 177 TCN.
- Sử ký Tư Mã Thiên, quyển 113, Nam Việt Úy Đà liệt truyện.
- Ban Cố, Hán thư, quyển 95, Tây Nam Di Lưỡng Việt Triều Tiên Truyện, đời Đông Hán.
- Nam Việt Quốc Sử do Trương Vinh Phương, Hoàng Diểu Chương viết, nhà xuất bản nhân dân Quảng Đông, in năm 1995.
- Nguyễn Việt (2010), Hà Nội thời tiền Thăng Long, Nhà xuất bản Hà Nội.
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Dữ liệu nhân vật | |
---|---|
TÊN | Triệu Đà |
TÊN KHÁC | 赵佗 (chữ Trung Quốc); Triệu Vũ Đế; 赵武帝 (chữ Trung Quốc); Nam Việt Vũ Vương; 南越武王 (chữ Trung Quốc); Nam Việt Vũ Đế; 南越武帝 (chữ Trung Quốc) |
TÓM TẮT | vua nhà Triệu (203 TCN–137 TCN) |
NGÀY SINH | ? |
NƠI SINH | |
NGÀY MẤT | 137 TCN |
NƠI MẤT |
Source: https://suadieuhoa.edu.vn
Category : Hỏi Đáp