Tôn Thất Thuyết – Wikipedia tiếng Việt
Tôn Thất Thuyết (chữ Hán: 尊室説; 1839 – 1913), biểu tự Đàm Phu (談夫), là quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Ông làm quan đầu triều trong giai đoạn Việt Nam lâm nguy: bên ngoài thì bị quân Pháp xâm chiếm, bên trong thì vua Nguyễn nhu nhược bất tài, trong khi ông luôn chủ trương phải chiến đấu đến cùng để bảo vệ đất nước. Ông là người đã phế lập các vua Dục Đức, Hiệp Hoà và Kiến Phúc trong một thời gian ngắn do những ông vua này quá bất tài hoặc có ý đầu hàng Pháp, gây nên một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng bên trong hoàng tộc, cho tới khi Hàm Nghi (1 vị vua có dũng khí chống Pháp) được ông hỗ trợ lên ngôi. Khi thất bại trong một cuộc binh biến chống Pháp năm 1885, Tôn Thất Thuyết đã phò tá vua Hàm Nghi đi Quảng Trị, tổ chức nghĩa quân chống Pháp, và chính ông nhân danh Hàm Nghi đã ra chiếu Cần Vương, bản chiếu thư nổi tiếng kêu gọi nhân dân Việt Nam yêu nước đứng lên chống Pháp. Toàn bộ gia đình 3 đời của ông cũng tham gia kháng chiến và phần lớn đã hy sinh vì nước, được sử sách và nhân dân ca ngợi là “Toàn gia ái quốc“.
Tôn Thất Thuyết sinh ngày 29 tháng 3 năm Kỷ Hợi, tức 12 tháng 5 năm 1839 [ 1 ] [ 2 ] tại làng Phú Mộng, bên bờ sông Bạch Yến cạnh Kinh thành Thuận Hóa, nay thuộc thôn Phú Mộng, phường Kim Long, thành phố Huế .
Ông là con thứ hai của Đề đốc Tôn Thất Đính và bà Văn Thị Thu, cũng là cháu 5 đời của Hiền vương Nguyễn Phúc Tần.
Bạn đang đọc: Tôn Thất Thuyết – Wikipedia tiếng Việt
Thời vua Tự Đức[sửa|sửa mã nguồn]
Năm 30 tuổi ( 1869 ), Tôn Thất Thuyết giữ chức Án sát tỉnh Thành Phố Hải Dương. Đến tháng 7 năm 1870, được sung làm Biện lý Bộ hộ rồi sau đó ( tháng 11 ) chuyển sang chức Tán tương giúp Tổng thống quân vụ đại thần Hoàng Tá Viêm ” dẹp loạn ” ở những tỉnh phía Bắc. Sau chiến dịch này, Tôn Thất thuyết được phong chức ” Quang lộc tự khanh ” và làm Tán lý quân thứ Thái Nguyên. Kể từ đây, ông chuyên hoạt động giải trí quân sự chiến lược và nổi tiếng dần qua những cuộc giao tranh với những cánh quân chống lại triều đình Huế .Tháng 12 năm 1870, ông chỉ huy đánh dẹp nhóm Đặng Chí Hùng ở Thái Nguyên .Tháng 3 năm 1872, ông cùng Trương Văn Để đánh tan quân Tàu Ô ở Thành Phố Hải Dương, giết chết Hoàng Tề .Tháng 8 năm 1872, ông đánh thắng toán giặc Khách ở Quảng Yên .Tháng 12 năm 1873, ông cùng Hoàng Tá Viêm phục binh tại CG cầu giấy, TP.HN giết chết viên chỉ huy quân sự chiến lược trong đợt Pháp đánh miền Bắc lần thứ nhất là đại úy Francis Garnier. Ông muốn thừa thắng tiến công địch nhưng triều đình sai ông triệt binh về Sơn Tây. Tôn Thất Thuyết liền cự tuyệt, buộc triều đình phải cử người đến bàn luận, ông mới chịu lui binh .Tháng 3/1874 vẫn là Tham tán Đại thần nhưng Tôn Thất Thuyết được phong là Hữu tham tri Bộ binh, tước Vệ Chính Nam. Một tháng sau, ông giữ chức tuần vũ tỉnh Sơn Tây kiêm tham tán Đại thần .Tháng 7 năm 1874, ông cùng Hoàng Tá Viêm đàn áp 2 cuộc nổi dậy của hai sĩ phu Trần Tuấn và Đặng Như Mai .Tháng 3 năm 1875, ông dập tắt được khởi nghĩa ở Cổ Loa, Đông Anh, bắt chém thủ lĩnh trận .Tháng 6 năm 1875, bức hàng nhóm Dương Đình Tín ở Thái Nguyên .Tháng 9 năm 1875, bắt sống được tướng quân Cờ vàng là Hoàng Sùng Anh ở Thái Nguyên ….Với hàng loạt công lao như vậy nên Tôn Thất thuyết được vua Tự Đức cho thăng quan tiến chức nhanh. Tháng 3 năm 1872, ông được bổ làm Bố chính tỉnh Thành Phố Hải Dương. Năm 1873 làm Tham tán Đại thần hàm Thị lang Bộ binh, rồi lên thự Tham tri Bộ binh. Tháng 3 năm 1874 vẫn là Tham tán Đại thần nhưng Tôn Thất Thuyết được phong là Hữu tham tri Bộ binh, tước Vệ Chính Nam. Tháng 4 năm 1874, ông giữ chức Tuần Vũ tỉnh Sơn Tây kiêm Tham tán Đại thần. Tháng 3 năm 1875 ông là Tổng đốc Ninh-Thái kiêm Tổng đốc những việc quân Ninh-Thái-Lạng-Bằng. Đến tháng 10 năm 1875 lại được bổ làm Hiệp đốc quân vụ Đại thần, chức tước gần ngang với Tổng thống quân vụ Đại thần Hoàng Kế Viêm. Với thắng lợi vào năm 1881, Tôn Thất Thuyết được phong chức Thượng thư Bộ binh và sang tháng 2 năm 1882 ông kiêm thêm chức Hải phòng sứ Kinh thành Huế. Năm 1883, Tôn Thất Thuyết chính lãnh chức Thượng thư Bộ binh và sau đó được cử vào Cơ Mật Viện vào tháng 6 năm 1883 .Vào tháng 10 năm 1875, khi ông đang làm Tổng đốc Ninh-Thái, phái viên Pháp ở TP.HN đã ý kiến đề nghị triều đình Huế phải thay người, vua Tự Đức đã bổ ông đi chỗ khác .Từ năm 1876, Tôn Thất Thuyết thường lâm bệnh, muốn thôi đảm đương việc quân và dâng sớ lên vua Tự Đức bày tỏ ý muốn đi tu [ 3 ] .Ngày 19 tháng 7 năm 1883, Tự Đức đã triệu tập 1 số ít đại để tận mắt chứng kiến việc ký di chúc truyền ngôi cho Hoàng tử Ưng Chân, đồng thời phong cho Tôn Thất Thuyết làm Đệ tam Phụ chính đại thần sau Trần Tiễn Thành và Nguyễn Văn Tường để giúp cho Ưng Chân kế vị ngôi vua vào tháng 7 năm 1883 .
Theo nhận xét của vua Tự Đức, Tôn Thất Thuyết “có tài dụng võ, nhưng thiếu lương thiện, không trung thực và hay trốn trách nhiệm. Học hành kém, không nhất quán, nhát gan, đa nghi, dễ làm mất lòng người khác. Hắn phải học nhiều thêm để trở thành một người quân tử”[4], nhưng vua Tự Đức cũng khen ông là “tướng có uy vũ”, “tài trí đáng khen”, “không phải là cuồng dũng như Ông Ích Khiêm, ít học như Trương Văn Để, cho nên Lê Tuấn cũng từng khen là biết lễ”. Vậy nên lúc sắp mất, Tự Đức vẫn tin tưởng trao trọng trách Phụ chính Đại thần cho ông.
Thời vua Dục Đức, vua Hiệp Hòa[sửa|sửa mã nguồn]
Chỉ sau ít ngày giữ chức Phụ chính đại thần, Tôn Thất Thuyết đã cùng Nguyễn Văn Tường phế lập vua Dục Đức để đưa Hiệp Hòa lên ngôi. Vua Dục Đức bị giam vào ngục cho đến chết. Từ lúc về Huế tham gia triều chính, đặc biệt quan trọng là sau ngày vua Tự Đức mất, Tôn Thất Thuyết đã nỗ lực biến triều đình Huế thành TT đầu não chống Pháp .
Tàu chiến Pháp tấn công cửa Thuận An 1883
Sáng ngày 20/3/1883, hơn 1.000 quân Pháp đổ xô và chiếm được cửa Thuận An. Nghe tin Thuận An thất thủ, vua Hiệp Hòa phải cử người đến xin người Pháp đình chiến và buộc những tướng lĩnh rút lui và nhổ những vật cản trên sông Hương. Quyết định nghị hòa của vua Hiệp Hòa tạo ra sự bất mãn trong hàng ngũ quan quân chủ chiến, nhưng họ đành bất lực. Tôn Thất Thuyết phản ứng bằng cách đem cờ và ngự bài binh sự trả lại cho nhà vua, còn Ông Ích Khiêm thì hậm hực rút quân bản bộ ( chừng 700 người ) .Hiệp ước Harmand được vua Hiệp Hòa phê chuẩn ngày 25/8/1883, gồm 27 pháp luật công nhận người Pháp có quyền bảo lãnh chủ quyền lãnh thổ và trấn áp về mặt ngoại giao của triều đình. Đây được coi là văn bản đầu hàng chính thức của nhà Nguyễn và Nước Ta chính thức bị thực dân Pháp đô hộ. Vua Hiệp Hòa còn nghe theo Khâm sứ De Champeaux, cử người ra Bắc để triệu hồi những võ tướng đang trấn giữ ở nơi đó về kinh. Những việc làm mang tính đầu hàng Pháp của nhà vua đã khiến nhiều người thêm phẫn nộ. Các tướng như Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản, Ngô Tất Ninh … đều không tuân lệnh vua và đều ở lại để cùng nhân dân liên tục kháng Pháp .Tháng 8/1883, Tôn Thất Thuyết được thăng chức Điện tiền tướng quân, Hiệp biện Đại học sỹ, tước Vệ Chính bá. Nhưng do phản đối Hiệp ước Harmand, ông đã bị Hiệp Hòa đổi sang làm thượng thư bộ Lễ rồi thượng thư bộ Lại. Do không đồng ý chủ trương đầu hàng người Pháp của vua Hiệp Hòa, ông đã cùng những đại thần liên tục phế bỏ và bức tử vua Hiệp Hòa vào cuối tháng 11 năm đó, rồi lập người con nuôi khác của vua Tự Đức là Kiến Phúc lên ngôi. Ông giữ lại chức thượng thư bộ Binh .Vua Kiến Phúc lên ngôi ngày 2/12/1883, tạo điều kiện kèm theo cho phái chủ chiến do Tôn Thất Thuyết đứng đầu củng cố thế lực, tăng cường lực lượng quân sự chiến lược ở những tỉnh và kinh đô, cũng như củng cố mạng lưới hệ thống sơn phòng ở những tỉnh miền Trung và những tỉnh phía Bắc. Trong triều đình Huế, toàn bộ những quan từng có quan hệ mật thiết với Pháp đều bị ông tìm cách trừ bỏ. Nhưng ông phải nhẫn nhịn để Kiến Phúc ký Hòa ước Giáp Thân ( 6 tháng 6 năm 1884 ) vì cần có thêm thời hạn củng cố lực lượng .Vào đầu tháng 8 năm 1884, sau khi vua Kiến Phúc lâm bệnh băng hà, việc đưa Hàm Nghi lên ngôi cũng xuất phát từ mục tiêu của Tôn Thất Thuyết nhằm hướng triều đình theo chủ trương chống Pháp. Đến lúc Hàm Nghi lên ngôi, Tôn Thất Thuyết mới thực sự kiểm soát triều đình đã không còn thực quyền nhằm tháo gỡ những ràng buộc mà người Pháp đang thiết lập lên An Nam. Người Pháp cũng đã công nhận “triều đình An Nam đã biểu dương một thái độ không hèn” và “thái độ ấy do Hội đồng Phụ chính đề ra“[5]. Từ đó, Tôn Thất Thuyết trở thành đối tượng cần thanh trừng hàng đầu của người Pháp.
Thời vua Hàm Nghi[sửa|sửa mã nguồn]
Dưới thời vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết thực sự trở thành cái gai mà người Pháp muốn nhổ ngay lập tức .Đầu tháng 1 năm 1884, Tôn Thất Thuyết lập đội quân Phấn Nghĩa và giao cho Trần Xuân Soạn trực tiếp chỉ huy để chuẩn bị sẵn sàng ứng phó khi có sự cố .Ngày 2/7/1885, tướng Pháp là De Cuorcy đã mang 3 đại đội bộ binh, 1 phân đội lính bộ truy kích, 1 đội kèn, tổng số 19 sỹ quan, 1.024 lính và 2 tàu chiến đến cảng Thuận An – Huế. Ngày 3/7/1885, De Courcy nhu yếu hội kiến với những Thượng thư của Triều đình Huế và Cơ Mật viện để bàn chi tiết cụ thể lễ chuyển giao hiệp ước Patenôtre, đồng thời nhân thời cơ này để bắt Tôn Thất Thuyết. Nhưng thủ đoạn của De Courcy bị lộ, Tôn Thất Thuyết cáo ốm không xuất hiện .
Do âm mưu bắt Tôn Thất Thuyết không thành, De Courcy liền đưa yêu sách là đòi triều đình Huế nội trong ba ngày phải nộp tiền chiến phí. Sự khiêu khích của Pháp đối với triều đình Hàm Nghi đã đến cực điểm.
Phong trào Cần Vương[sửa|sửa mã nguồn]
Trong tình thế luôn bị thực dân Pháp muốn vô hiệu, không hề ngồi khoanh tay nhìn quốc gia chịu nhục, ông đã ra tay trước để giành thế dữ thế chủ động bằng cuộc tiến công Pháp tại Huế vào đêm 4 tháng 7 năm 1885, khi quân Pháp đang mở tiệc chiêu đãi thì Tôn Thất Thuyết cho quân đánh úp vào trại lính và của Tòa Khâm sứ Pháp. Ông bí hiểm chia quân doanh làm hai đạo, một đạo do Tôn Thất Lệ, em ruột ông chỉ huy vượt sông Hương đánh úp Tòa Sứ Pháp, còn ông sẽ chỉ huy đạo thứ hai đánh úp doanh trại Pháp ở trấn Bình Đài ( Mang Cá ). Một giờ sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết hạ lệnh nổ súng vào Trấn Bình Đài. Quân Pháp ở Bình Đài phút đầu vô cùng hoảng loạn, nhưng sau đó củng cố lại được và cố thủ đợi trời sáng. Đạo quân Tôn Thất Lệ tiến công Tòa Sứ, đánh nhau giáp lá cà với địch. Quân Pháp tập trung chuyên sâu hàng loạt lực lượng để bảo vệ kho đạn và bưu điện. De Courcy khẩn thiết xin viện binh hỗ trợ từ ngoài TP. Hải Phòng vào. Đến gần sáng, quân Pháp củng cố được đội ngũ và phản kích trở lại, đánh vào Thành nội. 9 giờ sáng ngày 5/7/1885, Hoàng thành thất thủ. Chiếm được Kinh thành, quân Pháp ra sức đốt phá, cướp bóc, bắn giết. Tất cả những của quý trong Hoàng cung đều bị vét sạch, trụ sở Bộ Binh và Bộ Lại của Tôn Thất Thuyết bị đốt phá tan hoang. Hữu quân đô thống Hồ Văn Hiến và Nguyễn Văn Tường rước vua Hàm Nghi rút ra khỏi kinh thành ở cửa Tây Nam. Hậu quân bảo vệ xa giá là Tôn Thất Thuyết, quân hộ tống xa giá gặp bộ phận đón của Tôn Thất Lệ ở Trường Thi ( La Chữ ) tổng số có hơn 100 người .
Sau đó ông đã đưa Hàm Nghi ra Sơn Phòng Quảng Trị, thay mặt vua hạ chiếu Cần Vương. Lời chiếu nhấn mạnh “người giàu đóng góp tiền của, người mạnh khoẻ đóng góp sức lực, người can đảm đóng góp cánh tay, để lấy lại đất nước trong tay quân xâm lược”.
Hai con trai của Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cũng đều là chỉ huy trong trào lưu Cần Vương. Cha mẹ, bạn bè, vợ và con rể của ông cũng tham gia góp phần cho trào lưu .Người Pháp treo giải 2000 lạng bạc cho ai nộp đầu Tôn Thất Thuyết và ai bắt được vua Hàm Nghi thì được thưởng 500 lạng bạc .
Mặc cho ba bà Thái hậu và nhiều quan lại kêu gọi đầu hàng và quay về triều đình, Tôn Thất Thuyết vẫn tuyên bố: “Về Huế là tự mình đưa chân vào cho ngục thất, mà người cầm chìa khoá là quân Pháp. Thừa nhận Hiệp ước 1884 là dâng nước Nam cho kẻ địch. Đành rằng hoà bình là quý, nhưng không lo khôi phục sẽ mang tiếng là đã bỏ giang sơn của tiền triều dày công gây dựng và còn có tội với hậu thế“[6]
Sau khi giúp vua Hàm Nghi kiến thiết xây dựng địa thế căn cứ chỉ huy trào lưu kháng Pháp, nhận thấy tương quan lực lượng quá chênh lệch, vào tháng 2 năm 1886, Tôn Thất Thuyết đã để cho hai con trai là Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm liên tục phò tá Hàm Nghi chống Pháp, còn mình cùng với Trần Xuân Soạn và Ngụy Khắc Kiều tìm đường cầu viện, vượt thành phố Hà Tĩnh rồi Nghệ An, đến tháng 3 năm 1886 ông tới Thanh Hóa. Ông dừng chân tại Cẩm Thủy một thời hạn và cùng Trần Xuân Soạn và em ruột Tôn Thất Hàm bàn luận về kế hoạch khởi nghĩa rồi phân Soạn ở lại lo tăng trưởng trào lưu. Sau đó ông đến tổng Trịnh Vạn thuộc châu Thường Xuân hội kiến Cầm Bá Thước và ở lại đó cho đến ngày 22 tháng 4 năm 1886. Từ đấy ông qua thượng lưu sông Mã, đến châu Quan Hóa để gặp tù trưởng người Mường là Hà Văn Mao. Điểm dừng chân lâu nhất của ông là vào tháng 6 năm 1886 tại nhà tù trưởng người Thái là Đèo Văn Trị, bởi lẽ lúc này ông mắc bệnh rất nặng, không hề liên tục đi được. Ông liên tục lên đường đi Vân Nam và đến Quảng Đông vào tháng 2 năm 1887. Ông chủ trương cầu viện nhà Thanh giúp Nước Ta đánh thực dân Pháp .Cuối năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt vì thuộc hạ Trương Quang Ngọc phản bội, Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm đều chết khi đang hộ vệ nhà vua. Nhưng cuộc cầu viện bất thành, ông đành tìm những bạn lưu vong như Nguyễn Thiện Thuật, cố gắng nỗ lực liên lạc với trào lưu trong nước .
Hoạt động tại Trung Quốc[sửa|sửa mã nguồn]
Lúc này tại Thanh Hóa, cuộc khởi nghĩa Ba Đình bị dập tắt, căn cứ của Trần Xuân Soạn bị mất, nên ông Soạn đã vượt biên sang Trung Quốc gặp ông Thuyết tại Quảng Đông. Việc cầu viện nhà Thanh của Tôn Thất Thuyết bất thành, nhưng nhờ vào tình cảm cá nhân của một số quan lại Mãn Thanh chống Pháp nên Tôn Thất Thuyết đã cùng các đồng sự của ông tổ chức liên lạc với các cuộc chống Pháp bên trong nước, mua sắm vũ khí, đạn dược mang về cho nghĩa quân. Tôn Thất Thuyết đã tổ chức đường dây liên lạc với các cuộc khởi nghĩa bên trong nước, quyên góp, chiêu mộ binh dũng. Trâu bò, lúa gạo từ Việt Nam được chuyển sang Trung Quốc và đổi lấy vũ khí đưa về cho nghĩa quân. Hoạt động của Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn ở Quảng Đông rầm rộ đến nỗi quan lại Việt Nam thuộc tỉnh Lạng Sơn hay biết. Tháng 9/1888, tỉnh Lạng Sơn báo cáo về triều đình Đồng Khánh rằng: “Lê Thuyết (tức Tôn Thất Thuyết)và Trần Xuân Soạn, lẻn đến một dải Liên Thành, Bằng Tường nước Thanh nhập bọn với Lương Tuấn Tú và bọn Hoàng Văn Tường thuộc khách tỉnh ấy, cùng nhau tụ họp”, “Lê Thuyết ở nước Trung Hoa, giả làm quan nước Thanh, chiêu mộ binh dũng…”.
Việc tiếp tế này duy trì mãi đến năm 1894 thì kết thúc do biên giới Việt – Trung bị khóa. Tống Duy Tân sau khi thất bại ở Thanh Hóa đã sang Quảng Đông gặp ông, nhưng năm 1888 ông lại cử Tống Duy Tân về thiết kế xây dựng địa thế căn cứ chống Pháp ở Hùng Lĩnh .Năm 1889, Tôn Thất Thuyết cử người về TP Hà Tĩnh và phong cho Phan Đình Phùng làm Bình Trung tướng quân. Hầu hết những tướng lĩnh vùng Đông Bắc và Bắc Kỳ đều có sự liên lạc với Tôn Thất Thuyết. Ông đã tổ chức triển khai nhiều hoạt động giải trí chống Pháp ở vùng Đông Triều liên tục trong những năm 1891 – 1892. Những năm 1892 – 1895, do bị mất liên lạc trong nước, ông đã kiến thiết xây dựng nhiều toán quân có vũ trang mà đa phần là người Hoa và dân tộc thiểu số. Tháng 6 năm 1892, ông đã chỉ huy cho Lương Phúc đưa quân xâm nhập tổng Hoành Mô thuộc Móng Cái, phát tuyên ngôn dưới danh nghĩa Hàm Nghi để đánh Pháp. Đầu năm 1893, ông đã chỉ huy cho Vũ Thái Hà tiến vào Bình Hồ cũng thuộc Móng Cái để tiến công Pháp cũng dưới danh nghĩa Cần Vương .Tháng 3 năm 1895, ông cho một đạo quân tiến đánh Cao Bằng, chiếm vùng Lục Khu nhưng bị Pháp đẩy lui. Từ năm 1895, cuộc chiến tranh Trung – Nhật nổ ra, biên giới Việt – Trung bị trấn áp ngặt nghèo, người Pháp nhu yếu nhà Mãn Thanh quản thúc Tôn Thất Thuyết, theo dõi Lưu Vĩnh Phúc nên những hoạt động giải trí của ông chấm hết. Ông bị cấm túc, không được ra khỏi nơi cư trú. Triều đình Mãn Thanh cấp cho ông khoản trợ cấp hàng tháng 60 lạng bạc để hưu trí. Trong những năm cuối đời, ông thường có cơn điên dại và thường múa gươm chém vào những tảng đá trong vườn. Tính khí thất thường của ông trong những năm này khiến những người theo ông dần bỏ về Nước Ta hết. Trong những năm này, do cô quạnh, ông tái giá với một bà góa người Trung Quốc năm 1899. [ 7 ] Nhân dân vùng Long Châu, Quảng Đông, Trung Quốc gọi ông là ” Đả thạch lão ” ( ” Ông già chém đá ” ) .Ông mất tại Trung Quốc vào ngày 22 tháng 9 năm 1913. Khi ông mất, đại thần nhà Thanh là Lý Căn Nguyên ở Bắc Kinh xót thương ông trung liệt, đã cho xây mộ và dựng bia ông ở Thiên Quang. Nhân sĩ Quảng Châu Trung Quốc có câu đối điếu ông :
- Thù Tây bất cộng đái thiên, vạn cổ anh hồn quy Tượng Quận
- Hộ giá biệt tầm tỉnh địa, thiên niên tàn cốt kí Long Châu
- (Thù Tây chẳng đội trời chung, muôn thuở anh hồn về quận Tượng
- Giúp chúa riêng tìm cõi thác, nghìn năm xương nát gởi Long Châu)
Toàn gia yêu nước[sửa|sửa mã nguồn]
Như vậy phần nhiều mái ấm gia đình ông đều quyết tử vì nước : Cha Tôn Thất Đính bị lưu đày, mẹ và vợ ông mất nơi rừng núi, hai em trai ông Tôn Thất Hàm, Tôn Thất Lệ cùng hai con ông là Đàm và Tiệp đều dũng mãnh hi sinh, mấy người con trai thứ và con rể ông là Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền cũng dạt dẹo ở quốc tế lo chống Pháp .
Gia đình Tôn Thất Thuyết đã được người đời xưng tặng là “Toàn gia yêu nước”
Có nhiều nhìn nhận trái ngược tương quan đến cuộc sống của Tôn Thất Thuyết, xuất phát từ quan điểm của mỗi quá trình lịch sử vẻ vang .Thời Pháp thuộc, thực dân Pháp chán ghét nỗ lực kháng chiến của Tôn Thất Thuyết nên sách báo thời đó hầu hết là phê phán ông :
- Nguyễn Nhược Thị, theo quan điểm trung quân của Nho giáo, thì xem việc bỏ Dục Đức, phế Hiệp Hoà, lập Kiến Phúc, tôn Hàm Nghi của Tôn Thất Thuyết là hành động của kẻ “quên lời sách xưa”, “chẳng giữ đạo trung”, “vì thân”, “quyền thần sâu hiểm”[8]
- Trần Trọng Kim, viết theo quan điểm của thực dân Pháp, thì xem thái độ né tránh tướng de Courcy ở Toà Khâm sứ của Tôn Thất Thuyết là nhát gan[9] và cuộc tấn công Huế sáng ngày 7 tháng 5 năm 1885 ở Kinh thành Huế là “làm loạn”.
- Phan Trần Chúc, cũng viết theo quan điểm của thực dân Pháp, thì xem Tôn Thất Thuyết như người độc đoán hiếu sát, gần như mất nhân tính[10].
- Ch. Gosselin (học giả Pháp cuối thế kỷ 19) thì xếp ông vào loại thù địch, kém thức thời và xem việc ông đi Trung Hoa tìm cầu viện là hành vi đào ngũ[11].
- Tuy thế, trong bài “Vè Thất thủ kinh đô” được dân gian lưu truyền suốt thời Pháp thuộc, một tác giả ẩn danh đã đứng trên quan điểm của nhân dân Việt Nam, bác bỏ phê phán trong sách báo thực dân Pháp và đề cao Tôn Thất Thuyết như một anh hùng chống ngoại xâm:
- Nước ta quan Tướng anh hùng
- Bách quan văn võ cũng không ai tày
- Người có ngọc vẹt cầm tay,
- Đạn vàng Tây bắn ba ngày không nao!
- Tài hay văn vũ lược thao,
- Khí khái, nhâm độn ra vào rất thông.
- Bốn bề cự chiến giao công,
- Tây phiên nói thực anh hùng nước Nam!
- Một số quan chức Pháp thời đó coi Tôn Thất Thuyết là kẻ thù, nhưng trên tinh thần thượng võ nhà binh thì lại tôn trọng khí phách của ông: “Lòng yêu nước của Tôn Thất Thuyết không chấp nhận một sự thoả hiệp nào. Ông ta xem các quan lại chủ hoà như kẻ thù của dân tộc… Tuy nhiên, dù cho sự đánh giá ông của những người cùng thời thiên vị như thế nào, một đạo đức lớn đã bộc lộ rõ rệt trong mọi hoàn cảnh của đời ông: đó là sự gắn bó kỳ lạ của ông đối với Tổ quốc”[12]
Thời đó trong dân gian có câu vè nói về 4 vị tướng chống Pháp: “Nước Nam có bốn anh hùng / Tường gian, Viêm láo, Khiêm khùng, Thuyết ngu!”[13] Bàn luận về đôi câu này, PGS. TS. Đỗ Bang viết: “Sau ngày kinh đô thất thủ, phe thân Pháp và tay sai nắm quyền, các vị này thất thế bị rơi vào thế đối lập chống lại triều đình… Danh dự của các ông bị bôi nhọ, xuyên tạc ngay tại Huế… bia miệng độc ác và nghịch lý nhất là khi đem sự nghiệp của các ông ra làm điều giễu cợt…”[14].
Đối với những nhà nghiên cứu lịch sử dân tộc sau năm 1954, khi nước Nước Ta đã đánh đuổi được thực dân Pháp, thì Tôn Thất Thuyết được ca tụng là anh hùng dân tộc bản địa. Trên ý thức ca tụng chủ nghĩa yêu nước chống ngoại xâm, giới sử học nhìn nhận cao nhân cách Tôn Thất Thuyết, trân trọng tấm lòng yêu nước nhiệt thành của ông, ca tụng sự kiên trì chống Pháp và tận trung với vua Hàm Nghi của ông. Vua Hàm Nghi xuống dụ Cần Vương lôi kéo sĩ phu yêu nước giúp vua đánh giặc, về mặt danh nghĩa là dụ của vua Hàm Nghi, nhưng ai cũng biết ý thức linh hồn của cuộc chiến đấu và cả việc khởi thảo dụ Cần Vương là do Tôn Thất Thuyết [ 15 ]
Việc Tôn Thất Thuyết 2 lần phế vua Nguyễn chỉ trong một thời gian ngắn cũng được giới sử học ngày nay phân tích lại. Ở thời kỳ đó thì đây bị coi là hành vi bất trung, nhưng xét kỹ ra thì đó là “bất trung với vua nhưng tận trung với nước”, bởi nếu không làm thế thì nhà Nguyễn sẽ chỉ có một vị vua nhu nhược, cam nguyện phục tùng Pháp như Dục Đức, Hiệp Hòa, chứ không thể tìm ra vị vua có chí hướng kháng chiến như Hàm Nghi để hiệu triệu toàn dân chống Pháp. Việc Tôn Thất Thuyết phế vua bị sách vở của thực dân Pháp và nhà Nguyễn mô tả là do ông có tham vọng cá nhân, “quyền thần sâu hiểm”. Sự mô tả mang tính bôi nhọ đó rõ ràng là phi lý, bởi nếu muốn giành quyền lợi của bản thân thì Tôn Thất Thuyết chỉ cần làm một việc đơn giản: cộng tác với thực dân Pháp để cùng khống chế vua Nguyễn và triều đình, rồi sau đó chỉ việc ở Huế hưởng phú quý với sự bảo trợ của Pháp, chứ ông không cần phải mạo hiểm đứng lên chống Pháp, rồi lại phải đưa vua Hàm Nghi bôn tẩu nơi núi rừng, chịu bao gian khổ để rồi cuối cùng cả 3 đời trong gia đình ông đều hy sinh[15]
Tuy nhiên một số sai lầm của ông cũng được phân tích: không huy động nhân dân trong cuộc tấn công quân Pháp ở Huế ngày 5 tháng 7 năm 1885, ảo tưởng việc nhà Thanh sẽ giúp Việt Nam chống Pháp, hoạt động đàn áp khởi nghĩa nông dân của ông trong khoảng 10 năm trước khi về Huế cũng khiến ông bị mất đi một phần sự ủng hộ tại địa phương.[16] Theo TS Nguyễn Quang Trung Tiến, Khoa Lịch sử Trường Đại học khoa học Huế, Tôn Thất Thuyết có những tính cách đặc biệt nên khiến người khác có những hiểu lầm: “Theo ghi chép qua các tư liệu lịch sử Tôn Thất Thuyết là người ít nói, nhưng cương quyết, khẳng khái, thích lời ngay thẳng không ưa xu nịnh. Ông có sự quả quyết đôi lúc hơi tàn nhẫn liên quan đến việc trừng trị đối phương. Ngay cả những người trong cung cũng ngại ông. Tuy nhiên, ở cương vị là một vị tướng đem quân đi dẹp các nhóm nổi dậy và ăn cướp hãm hại dân chúng thì không thể nhân nhượng, nhu mì được”[15]
Ngày nay tại Nước Ta có hàng trăm đường phố ở khắp những địa phương được đặt theo tên ông để ca tụng. Phủ thờ Tôn Thất Thuyết vốn là Phủ thờ của dòng họ, được Tôn Thất Thuyết cho thiết kế xây dựng khoảng chừng năm Tự Đức thứ 19 ( 1866 ). Sau ngày Tôn Thất Thuyết mất dòng họ lấy Phủ này làm nơi thờ ông. Di tích Phủ thờ Tôn Thất Thuyết được Nhà nước Nước Ta công nhận là di tích lịch sử vương quốc ngày 19/10/1994 theo Quyết định số 2754 / QĐ-BT .
- Tôn Thất Thuyết anh hào lắm nỗi nhiêu khê. Tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ, số 2(8).1995
- Oscar Chapuis (2000).
The Last Emperors of Vietnam: From Tu Duc to Bao Dai. Greenwood Press. ISBN 0-313-31170-6.
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://suadieuhoa.edu.vn
Category : Hỏi Đáp