Thơ chúc Tết và những tiên tri của Bác Hồ trước lúc Xuân sang

Kể từ khi về nước năm 1941 đến khi từ giã quốc tế người hiền, Bác Hồ đã có 22 bài thơ chúc Tết mà bà con trong Nam, ngoài Bắc luôn mong ngóng được nghe khi giao thừa đến. Trong những bài thơ chúc Tết của Người và những lần gặp những chiến sỹ chỉ huy, Người đã có những dự báo mang tầm kế hoạch .

Trong suốt cuộc sống mình, Bác Hồ đã có 22 bài thơ chúc Tết ( Ảnh : Tư liệu ) .

Bài thơ chúc Tết đầu tiên Người viết vào Xuân năm 1942 tại núi rừng Việt Bắc, khi đó Bác dự báo: “Tháng ngày thấm thoát chóng như thoi/ Nǎm cũ qua rồi, chúc nǎm mới:/ Chúc phe xâm lược sẽ diệt vong !/ Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi !/Chúc đồng bào ta đoàn kết mau !/ Chúc Việt Minh ta càng tấn tới/  Chúc toàn quốc ta trong nǎm này/ Cờ đỏ ngôi sao bay phất phới!/ Nǎm này là nǎm Tết vẻ vang/ Cách mệnh thành công khắp thế giới”. Cũng năm này, lần đầu tiên Bác nói về “cờ đỏ sao vàng” trong thơ chúc Tết: “Cờ đỏ ngôi sao bay phất phới!/ Nǎm này là nǎm Tết vẻ vang”.

Bạn đang đọc: Thơ chúc Tết và những tiên tri của Bác Hồ trước lúc Xuân sang

Trước đó, trong Hội nghị Trung ương 8 tháng 2-1941, do Người chủ trì họp ở Việt Bắc, Bác đã tiên tri : Cần phải biến hóa kế hoạch trong đó xây dựng ngay Mặt trận Việt Minh, và từ chỗ chỉ mỗi chống thực dân Pháp, Người đã chỉ rõ có phát-xít Nhật sẽ vào quản lý tiếp thực dân Pháp. Tháng 2-1942, trong bài thơ “ Lịch sử nước ta ” viết trên Báo Nước Ta Độc Lập, Bác dự báo thời cơ : “ Bây giờ Pháp mất nước rồi / Không đủ sức, không đủ người trị ta / Giặc Nhật Bản thì mới qua / Cái nền thống trị chưa ra mối mành / Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh / Khắp nơi có cuộc cuộc chiến tranh rầy rà / Ấy là nhịp tốt cho ta / Nổi lên Phục hồi nước nhà tổ tông ”. Kết thúc phần viết bài “ Nên học Sử ta ” trên báo này, Người tiên đoán “ 1945 Nước Ta độc lập ” và tiên đoán này thành thực sự, khi nổ ra Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công xuất sắc, Người đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước dân chủ công – nông tiên phong ở Khu vực Đông Nam Á .
Năm 1946 dân tộc bản địa ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với khó khăn vất vả, trở ngại chồng chất, tuy nhiên Người đặt niềm tin trong bài thơ chúc Tết : “ Bao giờ kháng chiến thành công xuất sắc / Chúng ta cùng uống một chung rượu đào ”. Sau đó, Xuân Giáp Ngọ năm 1954, Bác đặt ra trách nhiệm cho toàn quân, toàn dân ta trong lời thơ chúc Tết : “ Quân và dân ta nhất trí kết đoàn / Kháng chiến, kiến quốc nhất định trọn vẹn thành công xuất sắc / Hòa bình dân chủ quốc tế khắp Nam, Bắc, Tây, Đông / Nǎm mới, thắng lợi càng mới, thành công xuất sắc càng nhiều ”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng có lần kể lại, tháng 4-1954 khi sang từ biệt Bác để đi dự Hội nghị Giơ-ne-vơ, Người nói với Thủ tướng sẽ có món quà lớn khuyến mãi ngay đoàn đại biểu ta. Đúng như vậy, sau 1 tháng, ngày 7-5-1954 đại thắng lẫy lừng ở Điện Biên Phủ đã kết thúc cho cuộc xâm lăng của thực dân Pháp tại Nước Ta suốt gần 1 thế kỷ .
Lời thơ chúc Tết xuân Giáp Ngọ của Bác như lời dự báo mà đã trở thành hiện thực với thắng lợi Điện Biên Phủ “ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu ” sau Tết mấy tháng. Rồi sau đó đến ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, độc lập lập lại ở miền Bắc nước ta. Bài thơ chúc Tết tiếp theo vào năm 1956, rồi Xuân Canh Tý 1960, Người luôn khẳng định chắc chắn một niềm tin là quân và dân ta sẽ thắng lợi đế quốc Mỹ, quốc gia sẽ thống nhất, độc lập, tự do. Mùa xuân Bính Thân 1956, Bác nhắc nhở đồng bào, chiến sỹ cả nước với 2 trách nhiệm kế hoạch : Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất quốc gia .
Thơ chúc Tết Xuân Canh Tý 1960, Người viết : “ Mừng Nhà nước ta 15 xuân xanh ! / Mừng Đảng tất cả chúng ta 30 tuổi trẻ ! / Chúc đồng bào ta đoàn kết thi đua / Xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa / Chúc đồng bào ta bền chắc đấu tranh / Thành đồng miền Nam vững chắc can đảm và mạnh mẽ / Cả nước một lòng, hǎng hái tiến lên / Thống nhất nước nhà, Bắc Nam vui tươi ! ” .
Thơ chúc Tết Xuân Bính Ngọ 1966, Người chúc tình nghĩa Bắc – Nam luôn đoàn kết một lòng để thắng quân địch xâm lược. Sang Xuân 1966, quân và dân miền Nam có nhiều thắng lợi lớn trên mặt trận. Khi cuối năm Người đã nắm tình hình qua Đại tướng Võ Nguyên Giáp và những đoàn từ miền Nam ra, chuẩn bị sẵn sàng đón Tết về Bác mừng quân – dân miền 2 miền bài thơ : “ Mừng miền Nam rực rỡ tỏa nắng chiến công / Nhiều Dầu Tiếng, Bầu Bàng, Pley Me, TP. Đà Nẵng / Mừng miền Bắc chiến đấu anh hùng / Giặc Mỹ leo thang ngày càng thua nặng / Đồng bào cả nước đoàn kết một lòng / Tiền tuyến hậu phương, toàn dân nỗ lực / Thi đua sản xuất chiến đấu xung phong / Chống Mỹ, cứu nước, ta nhất định thắng ” .

Năm 1968, là mùa Xuân của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968 mà Người và Trung ương Đảng đang chỉ đạo – mùa xuân báo hiệu ngày thắng lợi đang đến gần cho 2 miền Nam Bắc sum họp một nhà, Bác chúc tin thắng trận Tết Mậu Thân 1968: “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua/ Thắng trận tin vui khắp nước nhà/ Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ/ Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!”.

Vần thơ ngắn gọn, ai cũng dễ như về lời chúc của Bác chúc Tết Xuân Mậu Thân 1968, ta nghe như khúc khải hoàn ca của quân và dân ta, sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân toàn bộ những đô thị miền Nam đều đã nổi dậy và lập nhiều chiến công .
Bài thơ ở đầu cuối – Chúc Tết Kỷ Dậu 1969, Người lại dự báo một sự thần kỳ của dân tộc bản địa ta tất sẽ đến : Nǎm qua thắng lợi vẻ vang / Nǎm nay tiền tuyến chắc càng thắng to / Vì độc lập, vì tự do / Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào / Tiến lên ! Chiến sĩ, đồng bào / Bắc-Nam sum vầy, xuân nào vui hơn ! ” .
Chúc Tết Xuân Kỷ Dậu 1969 là bài thơ chúc Tết sau cuối với toàn dân tộc bản địa ta. Khi ra đi, Người đã để lại Di chúc và động viên toàn Đảng, toàn dân ta gan góc đấu tranh, tiến lên giải phóng trọn vẹn miền Nam. Lời tiên đoán của Xuân Kỷ Dậu 1969, “ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào ” để có “ Bắc Nam sum vầy Xuân nào vui hơn ” sau đó thành hiện thực .
Trong cuộc sống của Người, những tiên đoán trước về những sự kiện trọng đại của quốc gia luôn được Người chứng minh và khẳng định sẽ đi tới để những cấp, những ngành có sự dự trữ. Như mùa Xuân năm 1962, khi Người cho mời Thượng tướng Phùng Thế Tài, Tư lệnh Phòng không – Không quân đến căn dặn sớm muộn gì thì đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh phá miền Bắc, nhất là Thủ đô TP.HN. Tháng 2-1962, khi Người cho mời lên, Bác hỏi Thượng tướng Phùng Thế Tài : “ Chú đã nghe gì về B52 chưa ” ? Đến cuối 1967, đầu năm 1968 Người thông tư Tư lệnh Phùng Thế Tài : “ Sớm muộn gì đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh TP. Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua, phải dự kiến trước mọi trường hợp mà tâm lý, sẵn sàng chuẩn bị trước. Ở Nước Ta, Mỹ sẽ thua sau khi thua trên khung trời TP. Hà Nội ”. Lời tiên đoán này trước đó cả 5 năm, tuy nhiên đó là sự nhìn nhận thật đúng chuẩn để
Quân đội ta và nhất là Bộ Tư lệnh Phòng không – Không quân có sự sẵn sàng chuẩn bị cho cuộc tập kích 12 ngày đêm. Lời tiên đoán của Người đã như một điều cảnh báo nhắc nhở mà cả dân tộc bản địa ta không hề không chú ý quan tâm, khi ta dám đánh Mỹ và thắng đế quốc Mỹ ngay trên khung trời Thủ đô Thành Phố Hà Nội vào những cuối năm 1972 .

Và như lời Chúci Tết cuối cùng năm Kỷ Dậu 1969 của Người: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào/ Bắc – Nam sum họp xuân nào vui hơn” đã thành hiện thực sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết ngày 27-1-1973 “Đánh cho Mỹ cút” để cho phép dân tộc ta tiếp tục “đánh cho ngụy nhào” vào ngày 30-4-1975. Mốc son chói lọi ngày 30-4-1975 đã thỏa lòng mong ước của Người tiên đoán trước đó với toàn dân tộc ta, để đi vào ngày toàn thắng vĩ đại, đóng góp lớn cho nhân loại về sự chấm dứt chủ nghĩa thực dân mới trên toàn cầu.

Phạm Bá Nhiễu

Theo http://www.xaydungdang.org.vn

Alternate Text Gọi ngay