Thị trường vốn Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

Thị trường vốn là cấu phần quan trọng của thị trường kinh tế tài chính, là nơi đáp ứng nguồn vốn trung – dài hạn và là nền tảng quan trọng cho tăng trưởng kinh tế tài chính. Trong những năm qua, bên cạnh những bước tăng trưởng vượt bậc, đạt nhiều tác dụng đáng ghi nhận ; thị trường vốn Việt Nam cũng thể hiện nhiều hạn chế, chưa ổn và Open 1 số ít rủi ro đáng tiếc .
* * * * *
Trong tiến trình tiếp theo, một trong những tiềm năng trọng tâm đặt ra trong những văn kiện Đại hội Đảng khóa XIII, những Nghị quyết của Quốc hội, nhà nước về tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội là tăng trưởng thị trường vốn bảo đảm an toàn, minh bạch, hiệu suất cao, bền vững và kiên cố nhằm mục đích không thay đổi kinh tế tài chính vĩ mô, kêu gọi nguồn lực tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội. Trên cơ sở nhìn nhận những hiệu quả đạt được, nhận diện những yếu tố còn sống sót, khó khăn vất vả thử thách trong quá trình tới, bài viết đưa ra 1 số ít giải pháp, khuyến nghị để tăng trưởng bảo đảm an toàn, không thay đổi, bền vững và kiên cố thị trường vốn Việt Nam trong quá trình tới .

Sau 20 năm phát triển, thị trường vốn của Việt Nam phát triển nhanh cả về chiều rộng và chiều sâu; khung khổ pháp lý được hoàn thiện; quy mô, sản phẩm, thanh khoản tăng nhanh, góp phần huy động được nguồn lực tài chính rất quan trọng cho nền kinh tế, hỗ trợ và bổ sung cho kênh cung ứng vốn truyền thống là tín dụng ngân hàng.

Thứ nhất, khung khổ pháp lý về thị trường vốn ngày càng được hoàn thiện, theo hướng: (i) tăng cường các biện pháp tái cơ cấu TCTD, định chế tài chính yếu kém, xử lý các hành vi vi phạm trên thị trường; (ii) nâng cao tính minh bạch, kỷ luật thị trường và chuẩn mực giám sát; (iii) tiệm cận gần hơn với thông lệ, nguyên tắc và các cam kết quốc tế; thúc đẩy thị trường vốn phát triển nhanh, mạnh hơn, góp phần đảm bảo sự an toàn và lành mạnh của hệ thống tài chính. Một số văn bản pháp lý và thể chế chính sách quan trọng có thể kể đến:

– Nghị quyết 42/2017 / QH14 của Quốc hội về thử nghiệm giải quyết và xử lý nợ xấu của những tổ chức triển khai tín dụng thanh toán ; Quyết định số 1058 / QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng nhà nước phê duyệt Đề án “ Cơ cấu lại mạng lưới hệ thống những tổ chức triển khai tín dụng thanh toán gắn với giải quyết và xử lý nợ xấu quy trình tiến độ năm nay – 2020 ” ; … sinh ra giúp tăng nhanh công tác làm việc giải quyết và xử lý nợ xấu cũng như tăng cường nhận thức, nghĩa vụ và trách nhiệm của người mua, TCTD trong việc tuân thủ pháp luật của pháp lý, bảo vệ bảo đảm an toàn mạng lưới hệ thống, góp thêm phần không thay đổi kinh tế tài chính, tiền tệ của vương quốc .
– Luật Chứng khoán sửa đổi năm 2019 khắc phục những hạn chế, chưa ổn của Luật Chứng khoán năm 2006 ( được sửa đổi, bổ trợ năm 2010 ), tạo cơ sở pháp lý cho việc tăng trưởng, bảo vệ bảo mật an ninh, bảo đảm an toàn đầu tư và chứng khoán ; Nghị định 155 / 2020 / NĐ-CP ngày 31/12/2020 hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán ; Nghị định 156 / 2020 / NĐ-CP pháp luật xử phạt hành chính trong nghành nghề dịch vụ sàn chứng khoán …. củng cố, triển khai xong nền tảng pháp lý để thị trường hoạt động giải trí hiệu lực hiện hành, hiệu suất cao, bảo vệ quyền và quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư .
– Nghị định 153 / 2020 / NĐ-CP lao lý về chào bán và thanh toán giao dịch trái phiếu doanh nghiệp ( TPDN ) riêng không liên quan gì đến nhau thay thế Nghị định số 163 / 2018 / NĐ-CP ngày 04 tháng 12 năm 2018 của nhà nước lao lý về phát hành trái phiếu doanh nghiệp và Nghị định số 81/2020 / NĐ-CP ngày 09/7/2020 sửa đổi, bổ trợ 1 số ít điều của Nghị định số 163 / 2018 / NĐ-CP ngày 04/12/2018 lao lý về phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Theo đó, khung khổ pháp lý thị trường TPDN đã liên tục được hoàn thành xong, bảo vệ tương thích với thông lệ tốt của quốc tế, thị trường đã dần hình thành những cấu phần thiết yếu để tăng trưởng, cung ứng nhu yếu kêu gọi vốn của những Doanh Nghiệp, tổ chức triển khai kinh tế tài chính, cũng như nhu yếu góp vốn đầu tư của thị trường .

Thứ hai, quy mô thị trường tăng nhanh. Quy mô thị trường chứng khoán tăng nhanh trong giai trong giai đoạn 2016 – 2017 và 2020 – 2021. Đến tháng 6/2022, giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán đạt 7,8 triệu tỷ đồng, tương đương 78,16% GDP (tháng 12/2015, vốn hoá thị trường chứng khoán đạt 2,1 triệu tỷ đồng, tương đương  41,8% GDP). Trong đó, vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt 6,2 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 340% so với cuối năm 2015; vốn hoá thị trường trái phiếu đạt 1,6 triệu tỷ đồng, tăng 111% so với cuối năm 2015.

Quy mô kinh doanh thị trường chứng khoán tăng trưởng mạnh và từng bước thu hẹp khoảng cách với thị trường tiền tệ ( hiện tỷ suất tín dụng thanh toán / GDP tại thời gian tháng 6/2022 đạt khoảng chừng 113,9 % ), san sẻ vai trò kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế tài chính, tương hỗ tiếp cận nguồn lực kinh tế tài chính cho doanh nghiệp để không thay đổi và tăng trưởng sản xuất, đặc biệt quan trọng là có thêm nguồn lực lan rộng ra quy mô hoặc góp vốn đầu tư vào công nghệ tiên tiến, giảm rủi ro đáng tiếc nhờ vào vào nguồn vốn tín dụng thanh toán thời gian ngắn của mạng lưới hệ thống ngân hàng nhà nước thương mại. Tổng giá trị kêu gọi vốn qua đầu tư và chứng khoán quy trình tiến độ năm nay – 2020 đạt 2,67 triệu tỷ đồng, tăng 133 % so với quy trình tiến độ 2011 – năm ngoái, trong đó kêu gọi vốn qua TPDN tăng 532 %, kêu gọi vốn qua phát hành TPCP tăng 54 %, giá trị thu được qua cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp tăng 712 % .

Vốn hoá thị trường chứng khoán và quy mô tín dụng giai đoạn 2015 – 2022

HOSE, HNX, UPCOM, TPCP/TPDN (trục trái) đơn vị: Triệu tỷ đồng

Vốn hoá TTCK/GDP, tín dụng/GDP (trục phải) đơn vị: %

Nguồn: UBGSTCQG tổng hợp

Thứ ba, số lượng sản phẩm tăng, mức độ đa dạng hoá cải thiện. Trên cả ba thị trường ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, các sản phẩm dịch vụ tài chính phát triển nhanh, xuất hiện nhiều sản phẩm và dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của các khách hàng và nhà đầu tư. Đặc biệt, các sản phẩm ngày càng được phát triển theo hướng tích hợp công nghệ do ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực tài chính được đẩy mạnh. Trong lĩnh vực ngân hàng, các TCTD đang tích cực đầu tư hạ tầng công nghệ để chuyển đổi mô hình từ ngân hàng truyền thống sang ngân hàng số. Trên thị trường chứng khoán, trong giai đoạn 2016 – tháng 6/2022, số doanh nghiệp niêm yết tăng từ hơn 1.100 mã cổ phiếu, chứng chỉ quỹ lên hơn 1.600 mã cổ phiếu, chứng chỉ quỹ. Các sản phẩm được đa dạng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư, phòng ngừa rủi ro như quỹ mở, quỹ thành viên, quỹ ETF, quỹ đầu tư (REIT). Tháng 8/2017, thị trường chứng khoán phái sinh ra đời với sản phẩm hợp đồng tương lai chỉ số VN30. Tháng 6/2019, sản phẩm chứng quyền có bảo đảm chính thức được đưa vào giao dịch.

Thứ tư, tình hình tài chính và hoạt động của các định chế tài chính nhìn chung đảm bảo an toàn, ổn định. Hoạt động cơ cấu lại các TCTD yếu kém kết hợp với xử lý nợ xấu đã đạt được các kết quả tích cực. Hệ thống TCTD đã thoát khỏi rủi ro đổ vỡ và tác động tiêu cực đến tổng thể hệ thống. Các ngân hàng đã có bước tiến lớn trong việc đáp ứng các yêu cầu an toàn vốn theo các thông lệ quốc tế. Đến tháng 6/2022, có 26/35 ngân hàng thương mại trong nước áp dụng Thông tư 41/2016/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện trụ cột I của Basel II. Mức độ tập trung vốn tại các ngân hàng thương mại vốn nhà nước giảm; cạnh tranh trên thị trường ngày một tăng. Cùng với đó, hệ thống CTCK, công ty Quản lý quỹ (QLQ) được tái cơ cấu, lành mạnh hóa tài chính, chất lượng tài sản được cải thiện. Theo đó, tính đến 30/6/2021, 82 CTCK trên thị trường có tổng tài sản đạt 277 nghìn tỷ đồng, tăng 3,7 lần so với cuối 2016, tổng vốn chủ sở hữu đạt 104 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3 lần. Tỷ lệ nợ có vấn đề giảm xuống 2,1% từ mức 6,4% năm 2016. Đến 30/6/2021, có 46 công ty QLQ đang hoạt động với vốn chủ sở hữu đạt 5,5 nghìn tỷ đồng, tăng 33%. Tổng tài sản quản lý (tới 31/12/2020) đạt khoảng 358 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3 lần.

Bên cạnh sự tăng trưởng nhanh trong thời hạn quan, thị trường vốn Việt Nam hiện vẫn còn nhiều thử thách cần được xử lý để tăng trưởng vững chắc hơn như : Triển vọng phục sinh kinh tế tài chính còn tiềm ẩn nhiều rủi ro đáng tiếc ; quy mô thị trường vẫn còn khá nhỏ so với những nước trong khu vực và thiếu tính không thay đổi ; những mẫu sản phẩm còn ít, chưa phong phú ; tính minh bạch, chuyên nghiệp chưa cao, chế tài chưa đủ sức răn đe ; hạn chế về hạ tầng dẫn đến thực trạng nghẽn lệnh, ảnh hưởng tác động đến niềm tin vào thị trường ; rủi ro tiềm ẩn khủng hoảng bong bóng trên thị trường do lượng vốn từ những nhà đầu tư mới chưa có, nhiều kiến thức và kỹ năng về TTCK ; nền tảng nhà đầu tư chưa bền vững và kiên cố …

Thứ nhất, cơ cấu thị trường vốn còn nhỏ so với các thị trường khu vực, các cấu phần của thị trường chưa cân đối. Tại thời điểm 30/6/2022, vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt khoảng 70,9% GDP, nhỏ hơn các thị trường cổ phiếu trong khu vực (từ 93% – 243% GDP, ngoại trừ Indonesia). Trong đó, khoảng 35% tổng vốn hóa thị trường thuộc sở hữu Nhà nước, còn hạn chế về sở hữu và tính thanh khoản. Bên cạnh đó, dư nợ thị trường trái phiếu (47% GDP) còn thấp hơn khá nhiều so với thị trường cổ phiếu và một số thị trường khu vực. 

Nguồn : WB

Thứ hai, hàng hóa trên thị trường vốn còn thiếu đa dạng, chất lượng một số sản phẩm chưa đảm bảo. Các doanh nghiệp niêm yết thuộc các ngành có tính chu kỳ cao là tài chính (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm), , xây dựng chiếm khoảng 65% tổng vốn hóa và thanh khoản thị trường cổ phiếu, chưa có nhiều doanh nghiệp niêm yết thuộc các ngành công nghệ, y tế, logistics, dịch vụ… Một số doanh nghiệp có dấu hiệu tăng vốn “khống” trước khi niêm yết cổ phiếu, huy động vốn trên thị trường chứng khoán nhưng sử dụng sai mục đích, giá cổ phiếu biến động thất thường không gắn liền với chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Còn nhiều doanh nghiệp nhà nước đã tiến hành cổ phẩn hóa nhưng chưa tiến hành niêm yết trên thị trường cổ phiếu. Bên cạnh đó, các sản phẩm tài chính phái sinh mặc dù đã có sự phát triển nhanh chóng, vượt các kỳ vọng đặt ra, tuy nhiên chưa đa dạng, thiếu lựa chọn cho nhà đầu tư (quyền chọn mua, chọn bán, hợp đồng tương lai…).

Thứ ba, cơ sở nhà đầu tư trong nước còn hạn chế, chưa gắn kết giữa chức năng huy động vốn dài hạn của thị trường vốn với hệ thống bảo hiểm, an sinh xã hội. Nhà đầu tư cá nhân chiếm khoảng 80 – 85% giao dịch trên thị trường cổ phiếu, phần lớn tự đầu tư thay vì uỷ thác qua các quỹ đầu tư chuyên nghiệp nên ảnh hưởng lớn đến tính bền vững của chỉ số VN Index (có những giai đoạn lọt vào nhóm các chỉ số chứng khoán tăng, giảm mạnh nhất trên thế giới). Đáng chú ý, mặc dù số lượng tài khoản nhà đầu tư cá nhân tăng đột biến trong giai đoạn 2020 – 2022, nhưng có nhiều tài khoản không hoặc ít giao dịch. Bên cạnh đó, hệ thống nhà đầu tư tổ chức trong nước còn thiếu vai trò các quỹ hưu trí dài hạn, vai trò của các DNBH chưa cao. Theo đó, mặc dù Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 đề ra vấn đề xây dựng khuôn khổ pháp luật và chính sách tài chính thích hợp để tạo điều kiện hình thành và phát triển các tổ chức đầu tư, nhưng hiện tại, cơ sở pháp lý vẫn chưa thật sự đầy đủ để hình thành, khuyến khích sự phát triển của quỹ hưu trí.

Thứ tư, công bố thông tin trên thị trường còn một số tồn tại. Báo cáo tài chính chưa kiểm toán của một số doanh nghiệp niêm yết chênh lệch lớn so với báo cáo tài chính được kiểm toán. Một số khoản mục trọng yếu chưa được thuyết minh đầy đủ, thiếu minh bạch hoặc bị kiểm toán cho ý kiến ngoại trừ. Báo cáo sử dụng vốn huy động chưa công bố đầy đủ, gây khó khăn cho cổ đông, trái chủ và cơ quan quản lý trong giám sát việc sử dụng vốn của công ty. Vi phạm công bố thông tin giao dịch của cổ đông lớn, cổ đông nội bộ và người có liên quan còn khá phổ biến, tiềm ẩn động cơ trục lợi do có lợi thế thông tin và chấp nhận mức xử phạt thấp hơn nhiều lần so với mức thu lợi.

Thứ năm, quản trị công ty đại chúng còn một số hạn chế. Một số doanh nghiệp chưa tuân thủ quy định về thành viên HĐQT độc lập. Từng thành viên HĐQT chưa thật sự độc lập với Ban điều hành và với các thành viên HĐQT khác. Một số trường hợp vi phạm quyền lợi của công ty và cổ đông như thành lập các công ty do các thành viên HĐQT hoặc Ban Giám đốc điều hành kiểm soát, từ đó chuyển doanh thu, lợi nhuận hoặc khách hàng của công ty ra ngoài; công ty có những khoản cho vay thiếu minh bạch đối với thành viên HĐQT, Ban điều hành…

Thứ sáu, một số tiêu chí nâng hạng thị trường lên thị trường chứng khoán mới nổi còn chậm đáp ứng. Thị trường chứng khoán Việt Nam được đưa vào danh sách nâng hạng trong 5 năm trở lại đây, tuy nhiên, mức độ cải thiện các tiêu chí còn chậm, thậm chí theo hướng tiêu cực. MSCI  trong kỳ đánh giá tháng 6/2022 hạ bậc 09 tiêu chí định tính đối với thị trường Việt Nam trong đó một số tồn tại chính là khả năng tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) còn hạn chế đối với giới hạn sở hữu nước ngoài tại công ty đại chúng, công ty niêm yết; khả năng tiếp cận thông tin của NĐTNN còn hạn chế đối với công bố thông tin bằng tiếng Anh của công ty đại chúng, công ty niêm yết và một số quy định pháp lý; các tiêu chí về thanh toán và bù trừ chứng khoán (pre-funding: giao dịch chứng khoán yêu cầu có đủ tiền; chưa có tổ chức bù trừ chính thức), cho vay chứng khoán, bán khống chứng khoán. 

Thứ bảy, chất lượng một số tổ chức trung gian (công ty chứng khoán, công ty kiểm toán, công ty thẩm định giá…) chưa đảm bảo, chưa đáp ứng tốt yêu cầu minh bạch, năng lực thẩm định để có hàng hóa chất lượng cho thị trường. Một số trường hợp công ty chứng khoán tư vấn hồ sơ phát hành TPDN, công ty kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp niêm yết, công ty thẩm định giá trị tài sản bảo đảm có dấu hiệu thông đồng với tổ chức phát hành trong việc cung cấp thông tin sai lệch về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ra công chúng, một số trường hợp xung đột lợi ích do tổ chức trung gian có mối quan hệ với tổ chức phát hành chứng khoán.

Thứ tám, gia tăng rủi ro liên thông giữa thị trường vốn (thị trường TPDN, thị trường cổ phiếu) với hệ thống TCTD và lĩnh vực . Thời gian gần đây phát sinh hiện tượng một số doanh nghiệp , tập đoàn đa ngành (trong đó là một mảng kinh doanh chính) cùng các tổ chức có mối liên quan trực tiếp/gián tiếp tiến hành mua

CP, tham gia hoạt động giải trí điều hành quản lý những định chế kinh tế tài chính ( NHTM, công ty sàn chứng khoán, DNBH ). Một nhóm cổ đông hoàn toàn có thể lách những pháp luật pháp lý về số lượng giới hạn chiếm hữu CP của cổ đông, cổ đông và người có tương quan tại TCTD và những lao lý về số lượng giới hạn cấp tín dụng thanh toán so với người mua tại Luật những TCTD, từ đó tận dụng quyền chi phối hoạt động giải trí của ngân hàng nhà nước, “ lách ” những pháp luật bảo đảm an toàn, quản trị rủi ro đáng tiếc, trấn áp nội bộ của TCTD để sử dụng nguồn vốn của ngân hàng nhà nước cấp tín dụng thanh toán cho những công ty con, công ty “ sân sau ”, công ty trong cùng hệ sinh thái của doanh nghiệp . Việc tích tụ rủi ro đáng tiếc tập trung chuyên sâu tín dụng thanh toán hoàn toàn có thể ra rủi ro đáng tiếc Viral giữa thị trường và thị trường kinh tế tài chính .
Dù đương đầu với nhiều rủi ro đáng tiếc, thử thách khó lường, nhưng thị trường vốn Việt Nam được kỳ vọng sẽ tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ và cân đối hơn trong quá trình mới, thực thi tốt vai trò huyết mạch trong nền kinh tế tài chính, góp phần thôi thúc tăng trưởng kinh tế tài chính và hoàn thành xong những tiềm năng kế hoạch mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong quá trình 2021 – 2030. Trên cơ sở những tác dụng đã đạt được, để tăng trưởng thị trường vốn bảo đảm an toàn, minh bạch, hiệu suất cao, vững chắc nhằm mục đích hoàn thành xong, đồng nhất thể chế kinh tế thị trường, không thay đổi kinh tế tài chính vĩ mô, kêu gọi nguồn lực tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội theo ý thức của Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XIII, Nghị quyết của Quốc hội cơ cấu tổ chức lại nền kinh tế tài chính quá trình 2021 – 2025, Nghị quyết về kế hoạch tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội 05 năm 2021 – 2025, Nghị quyết 86 / NQ-CP ngày 11/7/2022 của nhà nước …, cần triển khai những giải pháp sau :

Một là, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý thị trường vốn. Tập trung vào phát triển cơ sở nhà đầu tư thông qua hoàn thiện quy định về nhà đầu tư chuyên nghiệp dựa trên thực tiễn thị trường; khuyến khích nhà đầu tư cá nhân đầu tư qua các quỹ chuyên nghiệp thông qua ưu đãi về thuế, phí; hoàn thiện khung pháp lý đối với việc thành lập, vận hành, cơ chế tài chính để phát triển các loại hình ETF, quỹ hữu trí tự nguyện, quỹ đầu tư trái phiếu, quỹ tiền tệ…

Hai là, tăng quy mô thị trường chứng khoán và đa dạng hóa sản phẩm trong giai đoạn 2021 – 2025. Cần nghiên cứu ban hành các chính sách ưu đãi để thúc đẩy các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán (hỗ trợ chi phí về công bố thông tin, kiểm toán doanh nghiệp niêm yết; ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn đối với doanh nghiệp có quy mô trung bình trở lên, thuộc các ngành nghề ưu tiên phát triển, gắn với tái cơ cấu nền kinh tế như năng lượng xanh, kinh tế xanh, công nghiệp phụ trợ… Bên cạnh đó, giai đoạn 2022 – 2025, cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành các quy định về bảo vệ người tiêu dùng sản phẩm tài chính, hướng dẫn sử dụng Fintech trong lĩnh vực chứng khoán. Kiên quyết yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa có đủ điều kiện phải niêm yết/đăng ký giao dịch cổ phiếu; triệt để tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình cổ phần hóa gây khó khăn cho việc niêm yết/đăng ký giao dịch. Đồng thời, nghiên cứu thiết lập thị trường giao dịch tập trung cho các TPDN và thị trường dành cho các doanh nghiệp có tiềm năng tăng trưởng cao, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (startup, fintech), vừa góp phần phát triển cân đối các cấu phần thị trường trên TTCK vừa tạo thêm nguồn cung hàng hóa cho thị trường.

Ba là, tiếp tục cải thiện các yêu cầu về công bố thông tin, quản trị doanh nghiệp: (i) tiếp tục nâng cao các hình thức xử phạt đối với các trường hợp công bố thông tin sai lệch, chậm công bố thông tin trong đó áp dụng chế tài bổ sung như cấm huy động vốn có thời hạn, cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý tại công ty niêm yết; (ii) tăng cường kiểm tra chất lượng báo cáo tài chính và hoạt động kiểm toán của các đơn vị kiểm toán, kiểm toán viên; thẩm định giá và xử lý các vi phạm; (iii) nghiên cứu nâng cao yêu cầu công bố thông tin đối với công ty sở hữu vốn không phải là công ty đại chúng, các công ty chưa đại chúng phát hành TPDN; (iv) bổ sung quy định yêu cầu công bố thông tin bằng tiếng Anh đối với các doanh nghiệp niêm yết thuộc các chỉ số chính (VN30, VN DIAMOND…).

– Bốn là, sớm phê duyệt đề án thành lập trung tâm tài chính khu vực và quốc tế (TP.HCM và/hoặc TP. Đà Nẵng) theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XIII đề ra nhiệm vụ nghiên cứu và thiết lập cơ chế đặc thù thúc đẩy phát triển TP.HCM trở thành trung tâm tài chính quốc tế; và Nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2021 – 2025 đã định hướng lựa chọn một số địa điểm, đô thị có lợi thế đặc biệt để xây dựng trung tâm kinh tế, tài chính, có tính đột phá, có khả năng cạnh tranh quốc tế cao, kết nối với các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực và thế giới./.

Thiết kế:
Thế Công

Bài viết cùng tác giả TS. Vũ Nhữ Thăng – Phó quản trị đảm nhiệm Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia »

Alternate Text Gọi ngay