Thiền sư Thích Nhất Hạnh và ba lần nhẫn nại trở về

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người thầy mang dòng máu Việt có ảnh hưởng tác động lớn nhất so với quốc tế. Cả phe phái phật giáo lao vào lẫn phương pháp thực hành thực tế chánh niệm của Thầy đều được sự quan tâm và noi theo của triệu triệu người .
Tuy nhiên ảnh hưởng tác động của Thầy ở Việt Nam đã không được như chính Thầy mong ước vì sự nghi ngại, bảo thủ và giáo điều của giới chỉ huy cộng sản. Sự nghi ngại, bảo thủ và giáo điều này hoàn toàn có thể thấy qua ba lần Thầy nhẫn nại về Việt Nam, nơi giới chỉ huy có những giá trị đi ngược lại quan điểm sống của người Thầy được quốc tế ngưỡng mộ .

‘Chuyến đi khó khăn’

Lần trở về thứ nhất là năm 2005, gần 40 năm sau khi Thầy bị buộc phải sống lưu vong vì chính quyền ở miền nam thời trước 1975 không hài lòng với thái độ phản chiến của vị Thiền sư và ngăn cản ông về nước hồi năm 1966.

“ Chuyến đi này là một chuyến đi khó khăn vất vả vì không khí hoài nghi, sợ hãi vẫn còn nặng nề trong toàn cảnh chính trị, nhất là trong những ngày đầu ở TP.HN. Ví dụ trong buổi giảng tại Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo, người ta đã hứa là 300 người sẽ nhận được giấy mời nghe Sư Ông giảng, nhưng tới ngày chót chỉ có 40 lá thư được gửi ra và ở đầu cuối chỉ có 18 vị trong số 40 người có thư được vào nghe Sư Ông. Những người còn lại bị công an giữ cửa khước từ không cho vào vì tên họ đã bị gạch bỏ trên list. ” Đó là những gì được ghi chính thức trong Lá thư Làng Mai hồi năm 2006, ấn phẩm ra đời mỗi năm một lần .
Nhưng Lá thư Làng Mai nói sự sợ hãi sau đó cũng bớt đi nhiều và khi Thiền sư tới giảng ở Học viện hành chính vương quốc ở thành phố Hồ Chí Minh, những quan chức đã được cho phép tới 1.000 người tham gia nhờ vào “ sự thực tập kiên trì, vững chãi, thảnh thơi, ái ngữ và lắng nghe ” của Thầy Thích Nhất Hạnh. Làng Mai nói ở đầu cuối có cả thảy hơn 200.000 người đã có thời cơ trực tiếp tiếp xúc với vị Thiền sư và tăng thân tháp tùng mặc dầu “ báo chí truyền thông được lệnh không đăng tải chương trình và hoạt động và sinh hoạt của chuyến viếng thăm ” hồi năm 2005 .
Đó cũng là năm Thầy đưa ra bảy ý kiến đề nghị với Đảng Cộng sản trong đó có việc “ [ g ] iáo quyền và chính quyền sở tại là hai lãnh vực riêng không liên quan gì đến nhau không có quyền can thiệp vào nhau. Nhưng cả giáo quyền và chính quyền sở tại đều phải có đạo đức, nếu cả hai đều không muốn phá sản. ”
Cũng trong chuyến đi, Thầy nói với tạp chí Time : “ Để hoàn toàn có thể có tự do, điều thiết yếu là phải giúp người ta buông bỏ những sợ hãi, ngộ nhận và tẩy chay của họ. ”

‘Chuyến đi lịch sử’

Lần quay trở lại thứ hai hồi năm 2007 trong “ chuyến đi lịch sử vẻ vang ”, Thiền sư đã đứng ra tổ chức triển khai ba Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam để cầu siêu cho hàng triệu người Việt đã tử nạn trong đại chiến. Làng Mai nói Thầy đã có lời mời những vị chỉ huy hạng sang tới tham gia nhưng ở đầu cuối không có ai tới và viết trong Lá thư Làng Mai trong năm 2008 :
“ Phân tích cho kỹ ta sẽ thấy có nhiều nguyên do [ những chỉ huy không tới ], trong đó yếu tố nghi ngại là quan trọng hơn cả. Dấu hiệu tiên phong là nhà nước, trong đó hẳn có Trung ương Đảng và ban Tư Tưởng đã không muốn Làng Mai sử dụng từ giải oan. Đoàn tiền trạm của Làng Mai dù có lý giải bao nhiêu đi nữa, nói rằng những trai đàn chẩn tế của truyền thống lịch sử Phật giáo, từ xưa đến nay đều có sử dụng từ giải oan, nhưng rốt cuộc những thầy trong Giáo Hội cũng như trong Phái đoàn chỉ được chính thức sử dụng từ bình đẳng mà thôi .
“ Theo tư tưởng chỉ huy, đây là một cuộc cuộc chiến tranh giải phóng quốc gia, những người chiến sỹ quyết tử là tại họ muốn quyết tử, những người bên kia chống lại tại vì họ muốn chống lại, hai bên đã chết vì muốn đi theo đường lối và chí hướng của mình, như vậy không có oan ức gì cả. Trong tư duy người ta hoàn toàn có thể suy luận như thế nhưng trong thực tiễn, nỗi oan ức mà dân ta đã phải chịu đựng trong suốt cuộc cuộc chiến tranh dai dẳng có tầm vóc lớn lao tới cả không lời nói nào hoàn toàn có thể miêu tả nổi. Nước Đức cũng đã bị chia đôi, Tây Đức lại có địa thế căn cứ quân sự chiến lược Hoa Kỳ, nhưng rốt cuộc, hai nước Đức đã được thống nhất, những địa thế căn cứ hỏa tiễn liên lục địa của Hoa Kỳ ở Tây Đức được giải tỏa mà dân Đức không phải đi ngang qua một đại chiến với hàng sáu triệu người thiệt mạng với bao nhiêu đổ nát và tang tóc như ở nước ta. ”
Mặc dù có nhiều khó khăn vất vả, cả ba sự kiện ở ba miền sau cuối đều được phép diễn ra dù không được trọn vẹn theo ý của Thiền sư. Làng Mai nhận định và đánh giá : “ Qua những đại trai đàn chẩn tế ba miền này, ta thấy được tiềm lực lớn lao của nền đạo lý dân tộc bản địa, tiềm lực có năng lực chế tác niềm tin và tình huynh đệ, có năng lực tìm hiểu và khám phá một con đường tâm linh cho quốc gia, ngăn ngừa những tệ nạn xã hội, làm vững mạnh lại cơ cấu tổ chức mái ấm gia đình và hội đồng, gây cảm hứng cho một niềm tin vào tương lai quốc gia và dân tộc bản địa. ”

‘Nghi ngờ và sợ hãi’

Về những điều trái khoáy diễn ra, Lá Thư Làng Mai 2008 viết : “ [ T ] uy nhà nước đã được cho phép, nhưng sự hoài nghi và sợ hãi vẫn còn, đó là một trong những nguyên do khiến những vị chỉ huy không tới dự lễ dâng hương bạch Phật. Ban Tôn giáo nhà nước và ngành Công an Tôn giáo đã “ bảo lãnh ” phái đoàn trong niềm tin ấy, thế cho nên vì vậy trước ngày khai mạc Đại Trai đàn Chẩn tế ở chùa Vĩnh Nghiêm, ông Bùi Hữu Dược, Vụ trưởng vụ Phật giáo của Ban Tôn giáo nhà nước đã nói với thầy Pháp Ấn là trong trai đàn, những thầy không được nhắc tới người thuyền nhân bị thiệt mạng trên biển cả, những nạn nhân cuộc chiến tranh của miền Nam, trong đó có những binh sĩ của chính sách Việt Nam Cộng Hòa, không được nói tới những hố chôn tập thể, không được nói tới tù đày, học tập tái tạo, v.v… Lý do ông nêu ra là để không thay đổi bảo mật an ninh vùng. Sau hơn hai tiếng thuyết phục, ông Vụ trưởng không giữ được sự bình tĩnh và đã sử dụng những ngôn từ nóng bức. ”
Trong chuyến trở về hồi năm 2007, Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng đã có thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ý kiến đề nghị nhà nước dựng Tượng Đài Thuyền Nhân tại bờ biển Vũng Tàu để tưởng niệm đồng bào đã chết trong lúc vượt biển. Đương nhiên đề xuất này làm thế nào hoàn toàn có thể được đồng ý khi mà chính quyền sở tại Việt Nam còn tìm cách xóa bỏ cả những tượng đài thuyền nhân ở những hòn đảo tại những nước khác mà thuyền nhân từng lánh nạn trong đó có Indonesia .

‘Hai tiếng Việt Nam là đẹp nhất rồi’

Khi Thiền sư trở lại hồi năm 2007, Việt Nam đã triển khai chủ trương mà họ tự gọi là Đổi Mới được trên 20 năm. Nhưng những gì Thầy và phái đoàn tận mắt chứng kiến cho thấy sự đổi mãi mà không mới. Lá thư Làng Mai 2008 viết : “ Phải công nhận là giới công an và Ban tôn giáo cơ quan chính phủ đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức của con người để bảo vệ bảo mật an ninh cho phái đoàn, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Đi đâu, làm gì, phái đoàn cũng phải cho công an biết trước ; nếu công an xét không có bảo mật an ninh thì không được đi, không được làm. Cũng vì thế do đó trong suốt thời hạn thăm viếng, phái đoàn có cảm xúc không được tự do lắm. Ở những nước châu Âu, châu Mỹ, và ở tại những nước châu Á như Nhật bản, Vương Quốc của nụ cười, Đại Hàn, Hồng Kông, v.v… khi tới hoằng pháp, phái đoàn Làng Mai không cần ai bảo lãnh, không cần giấy mời hoặc sự bảo lãnh của bất kỳ một giáo hội nào hay của một ban tôn giáo nào. Tới đâu cũng có cảm xúc tự do, bảo mật an ninh và tự do. ”
Lá thư cũng viết thêm : “ Tại quốc gia ta, cách tư duy trong đảng và trong chánh quyền, đường lối kinh tế tài chính của quốc gia bây giờ đây đâu còn lấy chủ nghĩa Mác Xít làm khuôn vàng thước ngọc nữa. Đảng Cộng Sản Việt Nam, có người đã nói, cũng nên đổi tên đi thôi, một cái tên mới như Đảng Xã Hội, Đảng Đổi Mới, Đảng Dân Chủ, Đảng Cộng Hòa, Đảng Tự Do, Đảng Dân Tộc … tên gì cũng được miễn không phải là cái tên cũ. Cái tên Đảng hiện giờ đang là một chướng ngại, gây hiểu nhầm và liên tục nuôi dưỡng oán hận .
“ Trong Đảng và trong guồng máy chính quyền sở tại chắc như đinh đã có những vị tâm lý như thế mà chưa nói ra được. Có những vị trong Đảng cũng đã nghĩ tới việc thay quốc hiệu. Thay vì sử dụng quốc hiệu Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, một cái tên quá dài, ta hoàn toàn có thể đổi lại là Cộng Hòa Việt Nam hay tốt nhất là Việt Nam. Hai tiếng Việt Nam là đẹp lắm rồi, đẹp nhất rồi, không cần thêm vào chữ nào nữa cả. ”

Bất nhã hậu Bát Nhã

Sự thẳng thắn và cương trực của Thầy Thích Nhất Hạnh đã khiến chính quyền sở tại nổi đóa .
Kể từ chuyến quay trở lại tiên phong của Thầy hồi năm 2005, hàng trăm học trò theo Pháp môn Làng Mai đã theo về và tu tập ở tu viện Bát Nhã, Lâm Đồng. Nhưng sau hàng loạt những đề xuất kiến nghị của Thiền sư về chuyện phải có những biến hóa trong đó có việc giải tán ngành trấn áp tôn giáo và đặc biệt quan trọng là công an tôn giáo, chính quyền sở tại đã không còn ủng hộ việc được cho phép phần đông những tu sinh của Làng Mai ở lại Bát Nhã. Kết quả là tu viện đã bị côn đồ được công an mặc thường phục chỉ huy vào phá phách và đuổi những học trò theo Làng Mai khỏi đây .
Ngay cả khi họ đã rời khỏi tu viện Bát Nhã tới nương nhờ ở chùa Phước Huệ, cũng ở Lâm Đồng, chính quyền sở tại vẫn liên tục cho người truy đuổi như lời kể của Sư cô Tâm Nhật trong Lá thư Làng Mai năm 2010 về những gì xảy ra hồi tháng 12/2009 :
“ Sự yên ắng của khoảng trống Phước Huệ và những bước chân thiền hành bị khuấy động bởi nhóm người lạ mặt đeo khẩu trang. Thế rồi buổi gặp gỡ của Phái đoàn những nước bạn với Ôn Trụ Trì và anh chị em chúng tôi không thành giữa tiếng hô hào, chửi rủa và buộc tội của đám đông. Người ta nhục mạ và làm tổn thương nhân phẩm của Ôn Trụ Trì và của anh chị em chúng tôi .
“ Tôi rúng động bàng hoàng trước cảnh một người tự xưng là Phật tử dang tay sỉ vả thằng thừng vào mặt một vị tôn đức. Xung quanh tôi là cảnh hỗn loạn ồn ào. Anh chị em tôi vẫn ngồi yên, mỗi người đều duy trì niệm từ bi và bình lặng. Sự hỗn loạn càng tăng lên khi phái đoàn thăm viếng phải ra về. Ôn trụ trì lập tức bị cô lập trong phòng thao tác mấy mét vuông của mình, bao quanh là tiếng hô hoán chửi rủa nhục mạ của hơn trăm con người. Sau gần một tiếng đồng hồ đeo tay, Ôn Trụ Trì mới thoát được vào phòng riêng và bên ngoài vẫn còn tiếng đập cửa hô hoán. ”
Liên quan tới những diễn biến đấm đá bạo lực sau đó, Sư cô Tâm Nhật kể tiếp : “ Đầu của sư em Hoạt Nghiêm sưng vù một cục to tướng khi lãnh lấy một cú thoi từ một bàn tay thô bạo nào đó rồi bị đẩy từ trong phòng ra và va đầu thêm vào cột nhà. Sư em chỉ mới 17 tuổi. Thầy Phong Thuấn bị xô ra ngoài và bị xé cho rách nát áo. Thầy Thánh Hiệp, sư em Pháp Doanh, sư em Pháp Chuẩn cũng bị ném ra ngoài kèm theo lời rình rập đe dọa gầm gừ của chú công an mặt thường phục. Tôi nhận ra chú công an đó, người xuất hiện từ đầu những ngày Bát Nhã nguy hại, đứng bình thản quay phim cảnh anh chị em tôi bị đánh đập, rượt đuổi. Tiếng la thất thanh của sư em Đáo Nghiêm khi bị một người đàn ông xô đẩy và đụng vào, rồi sư em cũng bị hất văng ra khỏi phòng …
“ Ngay trên đầu chúng tôi là tiếng gào rú của hai, ba cái loa phóng thanh cỡ lớn, dọa dẫm khuyến nghị chúng tôi phải rời khỏi chùa Phước Huệ. Có sư em ngồi vòng ngoài, nhắm mắt niệm Bồ tát mà mặt hứng đầy nước bọt văng ra khi những người hung tàn kia ghé sát xuống mà chửi rủa. Sư em Trung Ngọc cũng ngồi vòng ngoài, cảm thấy tai mình ù đi khi một người đàn bà đã ghé chiếc loa phóng thanh vào tai em mà chửi : “ … Mày đi tu gì mà ngu và lì quá vậy, cút về địa phương mà ở đi, tới đây tính chiếm chùa hả ? ”

‘Đám mây không bao giờ chết’

Sau những gì xảy ra ở Bát Nhã, Làng Mai đành từ bỏ ý định mở rộng hoạt động và ảnh hưởng ở Việt Nam và quay sang củng cố và mở thêm các trung tâm ở bên ngoài trong đó có cả tại Thái Lan.

Khi quay trở lại Việt Nam hồi năm 2018 để dành những năm tháng ở đầu cuối tại chùa Từ Hiếu, nơi Thầy xuất gia khi 16 tuổi, Thiền sư đã không còn hoàn toàn có thể nói được sau lần đột quỵ hồi năm năm trước. Có lẽ Thầy cũng không còn muốn đề đạt gì với chính quyền sở tại cộng sản sau khi họ bỏ ngoài tai tổng thể những đề đạt trước đó của Thầy .
Sự quay trở lại sau cuối của Thiền sư thực tiễn đã được chính ông lý giải ngay trong lần đầu trở lại quê nhà sau gần 40 năm xa cách hồi năm 2005 : “ Trở về ở đây là trở lại nhà, về căn nhà của hải đảo tự thân, về căn nhà của tự tánh chân thực. Trở về ở đây có nghĩa là về nhà của tổ tiên, của đạo pháp, của tăng thân. Quê nhà là nơi có tình thương, hiểu biết, bình an và ấm cúng. ”

Cũng trong cùng chuyến đi đó Thầy đã hỏi cử tọa ở Quy Nhơn ‘ sau khi chết mình sẽ đi về đâu ’ và vấn đáp : “ Điều này giống như đám mây trên khung trời. Sức nóng của mặt trời đã biến nước của sông ngòi thành hơi, hơi này sau đó tụ lại thành mây. Rồi quay trở lại với đất, với sông dưới dạng : mưa, tuyết hoặc băng giá. Đám mây không khi nào chết. Nó chỉ đổi dạng thành : mưa, sông, nước. ”

Alternate Text Gọi ngay