Chuyện ít người biết về tác giả bài thơ Chùa Hương

( PLO ) – Cha ông ta có câu, “ giỏ nhà ai, quai nhà nấy ” thật có sai khi nào. Cứ xem, ông Nguyễn Văn Vĩnh có một sự nghiệp lẫy lừng đến vậy, con cháu ông cũng nhiều đó chứ, mà có ai theo nghiệp cha ? Nhưng đứt dòng chữ nghĩa thì không, vì còn đó Nguyễn Nhược Pháp .

Tiểu sử của nhà thơ Chùa Hương, được Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân tóm lược là “Con nhà văn hào Nguyễn Văn Vĩnh. Sinh ngày 12 Décembre 1914 ở Hà Nội, mất ngày… Novembre 1938. Có bằng tú tài tây”.

Nhà thơ có cái tên… lịch sử

Tên gọi của Nguyễn Nhược Pháp cũng có tính lịch sử lắm chứ chẳng chơi. Điểm này, xem trong Nguyễn Văn Vĩnh – Chuyện nghiệp, chuyện đời mới thấy. Thân sinh ra nhà thơ Chùa Hương, học giả Nguyễn Văn Vĩnh đặt tên con cái cũng thật kỳ khôi. Khi ở Hải Phòng, ông Vĩnh đặt tên con trai đầu lòng là Hải. Lúc ở Bắc Giang, con thứ ông đặt là Giang. 

Bạn đang đọc: Chuyện ít người biết về tác giả bài thơ Chùa Hương

Những người anh của Nguyễn Nhược Pháp, đều không mang tên đệm : Nguyễn Hải, Nguyễn Giang, Nguyễn Dực, Nguyễn Phùng … nhưng chú bé Pháp lại có tên đệm, và có nguyên do hẳn hoi. Khi Nguyễn Nhược Pháp sinh, là vào cuối năm 1914 khi cuộc Chiến tranh quốc tế thứ nhất đã bùng nổ .
Những mong Pháp thua trong thế chiến, ông Vĩnh gửi ý mình trong cái tên con trai : Nhược Pháp, ấy là kiến giải trong Nguyễn Văn Vĩnh – Chuyện nghiệp, chuyện đời. Thiển nghĩ của người viết bài này, cái ý ấy của ông Vĩnh, cũng thật kỳ cục khi cho ứng vào con trai mình .
Nguyễn Nhược Pháp là tác dụng của mối tình giữa ông Vĩnh với bà vợ thứ hai Phan Thị Lựu, người dân tộc bản địa Tày, đất Thành Phố Lạng Sơn. Ngặt nỗi, số ông Vĩnh đào hoa, khi chú bé Pháp lên 2 tuổi thì ông Vĩnh có người thứ ba, cô gái lai Tây Suzanne Giáp Thị Thục .
Bà Lựu nổi cơn ghen, và trong truyện “ Khẩu súng trong tay người đàn bà ” của sách TP.HN, những câu truyện kể từ cuối thế kỷ XIX – XX cho hay, bà mẹ trẻ của cậu bé Pháp đã kết liễu đời mình bằng một phát súng, trên ngực vẫn còn tấm ảnh cậu con trai lúc ấy đang ở Thành Phố Lạng Sơn .

Chuyện ít người biết về tác giả bài thơ Chùa Hương ảnh 1
Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp

Sau cái chết của mẹ, qua 49 ngày, cậu bé Nhược Pháp được cha đưa từ TP Lạng Sơn về TP. Hà Nội cho bà vợ cả Đinh Thị Tính trông nom, nuôi nấng như con đẻ, sống cùng những anh, chị cùng cha khác mẹ .

Lúc nhỏ, nhà thơ tương lai ấy và các anh chị được học chữ Nho với ông tú Phùng Năng Tĩnh người Bát Tràng. Sau này cậu học ở trường Trí Tri, rồi trường Trung học Albert Saraut. 20 tuổi đỗ tú tài, rồi theo học Đại học Luật. 

Hồn thơ trong trẻo, vui tươi

Viết về tuổi thơ của chú bé Pháp, trong Nguyễn Văn Vĩnh – Chuyện nghiệp, chuyện đời cho hay Pháp mưu trí, học giỏi lại đẹp trai. Cậu bé từng soạn khoảng chừng 50 câu thông dụng cho những đồng đội trong nhà cần tránh để không nói tục, chửi thề … Chú bé cũng rất thích lượn lờ bơi lội .
Cái óc tổ chức triển khai, có phần giống cha khi Pháp cũng “ máu mê ” báo chí truyền thông, cậu cùng mấy anh chị lớn hơn dồn tiền làm vốn in báo Tuổi cười. Báo in thạch, có hai màu đỏ và tím, mỗi tháng ra 1 số ít với 16 trang, khổ 15×20 cm và phát hành trong nội bộ … mái ấm gia đình .
Nghiệp thơ của Nguyễn Nhược Pháp, theo Lược truyện những tác gia Nước Ta, kể cũng rất ít khi chỉ xuất bản tập thơ Ngày xưa năm 1935 do Nxb. Nguyễn Dương ấn hành, hài kịch Người học vẽ của nhà in Trung Bắc tân văn năm 1936 .
Hẳn một phần bởi tuổi đời cũng ngắn ngủi khi chỉ ở trên dương thế 24 năm. Nhà thơ có bài thơ tiên phong năm 1932, và cũng từng cộng tác với 1 số ít báo như : Annam nouveau, Hanoi báo, Tinh hoa, Đông Dương tạp chí … Đồng thời, Nguyễn Nhược Pháp còn viết nhiều truyện ngắn và kịch .
Miêu tả Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Vỹ cho hay, chàng thơ mặt dài, cao 1,52 m, người gầy ốm và đầu tóc thì bờm xờm. Là con nhà có tên tuổi đấy, nhưng Nhược Pháp được cái tính hiền lành, mà như Văn thi sĩ tiền chiến ghi là “ hay nói, hay cười, tuy chỉ cười mỉm, và rất ưa nói khôi hài, giọng nói rủ rỉ dịu dàng êm ả như cô gái bẽn lẽn trên đường đi chùa Hương ” .
Nguyễn Nhược Pháp được miêu tả là người xã giao tốt, nhã nhặn với mọi người, và một phần tính nết có sự tương đương với cụ thân sinh khi rất trọng những tư tưởng tự do, độc lập, không chịu để ai chi phối. Đó là cái đậm cá tính cần có để làm ra một hồn thơ riêng vậy .
Được cái, cũng bởi tính tình dễ mến như thế nên theo nhận xét của Thi nhân Nước Ta “ thơ in ít mà được người mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp ” … “ đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, khi nào hình như cũng thoảng thấy bóng một người đương khúc khích cười …
Nó hiền lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ rằng cũng đủ cho nó có một vị thế trên thi đàn ”. Và điều đáng quý ở hồn thơ, giọng thơ của Nguyễn Nhược Pháp là “ nụ cười trên miệng khi nào cũng kèm theo một chút ít cảm động trong lòng ” .
Chính Nguyễn Nhược Pháp từng nhận xét về thơ của mình với Nguyễn Vỹ là “ thơ của moa “ superficielle ” ( tức là có mặt phẳng mà không có chiều sâu ). Hồn thơ của Nguyễn Nhược Pháp được cho là không có thi cảm nồng nhiệt và thấm thía, cũng không dồi dào về thi tứ, mà ưa cái phảng phất, nhẹ nhàng như chính con người nhà thơ vậy .

Còn Tác gia văn học Thăng Long – TP.HN ( từ thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XX ) thì cho hay “ thơ ông đậm đà những phong tục xưa, những nền nếp văn hóa truyền thống truyền thống lịch sử được bộc lộ qua những nét tinh xảo, thấm hồn dân tộc bản địa ” … “ Thơ Nguyễn Nhược Pháp thanh tao, tinh xảo, đôn hậu tươi tắn và duyên thầm ” .

Chuyện ít người biết về tác giả bài thơ Chùa Hương ảnh 2
Tập thơ Ngày xưa, bản in Cảo Thơm

Duyên thơ bài Chùa Hương

Ngày nay, hầu hết thế hệ fan hâm mộ qua những thời nhớ tới nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp với bài Chùa Hương, đã được phổ nhạc thành bài hát ” Em đi chùa Hương ” quen thuộc với khán thính giả bởi Trung Đức .
Duyên lành cho sự sinh ra bài thơ Chùa Hương, cũng ly kỳ mê hoặc lắm, để từ đó nhà thơ đột khởi nên một thi phẩm mãi ghi dấu ấn đẹp trong lòng fan hâm mộ qua thời hạn. Nguồn gốc bài thơ ấy, phải nghe Nguyễn Vỹ, một người trong cuộc hồi tưởng lại qua Văn thi sĩ tiền chiến thì mới thấy hết được cái thú của nó .
Số là, có dịp nọ Nguyễn Vỹ, Nguyễn Nhược Pháp cùng hai cô bạn là nữ sinh đi vãn cảnh chùa Hương. Khi trèo đến Rừng Mơ, nhóm bạn gặp một cụ bà vừa bước lên đèo, vừa chắp tay niệm “ Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát ” ; cạnh bên đó là một cô gái quê chắc là con của cụ, cũng đang niệm câu ấy .
Hai chàng trai trẻ thấy lạ, cứ thế nhìn, cô gái quê trông thấy thì bẽn lẽn không niệm nữa, đôi má hồng đỏ bừng, mặt cúi xuống thẹn thùng. Hai chàng trai nhà thơ mới hỏi : “ Sao trông thấy chúng tôi, cô không niệm Phật nữa ? ” Cô gái quê càng bồn chồn không vấn đáp được, áng chừng muốn khóc .
Trong khi ấy, hai cô bạn nữ sinh kia tay cầm máy ảnh, liền chụp luôn cái khoảnh khắc ấy nhưng rồi thấy hai chàng trai vì mải tò mò cô gái quê mà quên mình, nên bỏ đi trước. Hai chàng trai, sau một hồi trò chuyện với cô gái quê chợt gặp ấy, quay qua quay lại thì biến mất bóng hai cô bạn rồi .
Đêm ấy hai chàng trai ngủ trong chùa Hương, sáng mai ra mới gặp lại hai cô bạn nữ sinh, Nguyễn Vỹ nôn nả xin lỗi, còn Nguyễn Nhược Pháp thì cứ tủm tỉm cười không nói gì .
Về Thành Phố Hà Nội, hai ngày sau Nguyễn Nhược Pháp đem đến cho Nguyễn Vỹ bài thơ Chùa Hương, mà tên ban đầu đề là Cô gái chùa Hương .
Chính lần gặp gỡ vô tình hữu duyên vô phận ấy đã là nguồn thi hứng cho Nguyễn Nhược Pháp bay bổng trí tưởng tượng, viết nên “ bài thơ đẹp, giọng thơ ngây, y hệt như cô gái chùa Hương hôm ấy ”. Và lớp lớp fan hâm mộ được chiêm ngưỡng và thưởng thức một tuyệt phẩm để đời của nhà thơ họ Nguyễn, như những câu sau đây :
… Em tuy mới mười lăm ,
Mà đã lắm người thăm .
Nhờ mối mai đưa tiếng ,
Khen tươi như trăng rằm .
Nhưng em chưa lấy ai ,

Vì thầy bảo người mai.

Rằng em còn bé lắm
( Ý đợi người tài trai ) …

Alternate Text Gọi ngay