SKKN Một số giải pháp xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường THPT Lang Chánh
Bạn đang xem
20 trang mẫu
của tài liệu “SKKN Một số giải pháp xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường THPT Lang Chánh”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT LANG CHÁNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG LỚP HỌC HẠNH PHÚC TẠI TRƯỜNG THPT LANG CHÁNH Người thực hiện: Hoàng Thị Hải Đường Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác Chủ nhiệm THANH HOÁ NĂM 2019 MỤC LỤC Mục Nội dung Trang I Mở đầu 2 1 Lí do chọn đề tài 2 2 Mục đích nghiên cứu 2 3 Đối tượng nghiên cứu 3 4 Phương pháp nghiên cứu 3 II Nội dung 3 1 Cơ sở lí luận 3 2 Thực trạng trước khi áp dụng SKKN 4 3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vân đề 6 4 Tác động của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường: 15 III Kết luận, kiến nghị 17 1 Kết luận 17 2 Kiến nghị 18 Tài liệu tham khảo 19 Danh sách SKKN đã được Hội đồng Sở GD&ĐT đánh giá 20 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Ngày Quốc tế Hạnh phúc là ngày 20 tháng 3 hàng năm, kể từ năm 2013. Ngày lễ quốc tế này được Đại hội đồng Liên Hiệp quốc quyết định chính thức khi tất cả 193 quốc gia thành viên nhất trí thông qua Nghị quyết A/RES/66/281 ngày 20 tháng 6 năm 2012, chọn để tôn vinh niềm hạnh phúc của nhân loại trên thế giới và với mục tiêu không chỉ là ngày mang ý nghĩa biểu tượng đơn thuần, mà còn là ngày của hành động, tích cực và nỗ lực nhiều hơn để xây dựng thế giới đại đồng, đem lại hạnh phúc cho người người trên trái đất. Ở Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 2589/QĐ-TTg ngày 26/12/2013 phê duyệt Đề án “Tổ chức các hoạt động nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3 hàng năm”. Điều đó mang ý nghĩa lớn lao nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển an sinh xã hội, xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ và hạnh phúc; nâng cao nhận thức toàn xã hội về ngày Quốc tế Hạnh phúc, để từ đó có hành động cụ thể, thiết thực xây dựng gia đình hạnh phúc, cộng đồng hạnh phúc của người Việt Nam. [1] Đối với học sinh để có được hạnh phúc trước hết là được sống trong một gia đình hạnh phúc, được sự yêu thương của bố mẹ và người thân. Bên cạnh đó các em cần được trưởng thành trong một ngôi trường hạnh phúc- các em được học tập, được vui chơi, được chia sẻ, được thấu hiểu, được yêu thương và tôn trọng. Với giáo viên hạnh phúc là được truyền đạt được kiến thức, đào tạo được các thế hệ học trò vừa ngoan, vừa giỏi. Nhưng thực tế thì sao? Hàng loạt câu chuyện không vui xuất hiện trong học đường vừa qua: tỉ lệ stress học đường tăng nhanh chóng, bạo lực học đường đáng báo động, mối quan hệ thầy trò căng thẳng,...tất cả những điều đó được phản ánh thường xuyên qua các kênh truyền thông, là một điều nhức nhối trong xã hội nói chung và nền giáo dục nói riêng. Câu hỏi lớn đặt ra lúc này là: Làm thế nào để mỗi ngày học sinh đến trường là một ngày vui, giáo viên đến trường mỗi ngày là một niềm hạnh phúc, quan hệ thầy trò là động lực để học sinh vươn tới tri thức? Xây dựng lớp học hạnh phúc là việc làm cấp thiết cần được các nhà giáo dục quan tâm lúc này. Hiện tại rất ít tài liệu bàn sâu và đưa ra các giải pháp cho vấn đề này, đồng nghiệp, nhà trường chưa có kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường THPT Lang Chánh” để tìm câu trả lời thiết thực nhất cho các em học sinh, đồng nghiệp và nhà trường. 2. Mục đích nghiên cứu: Thông qua việc nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường THPT Lang Chánh” với mục đích: - Giúp cho học sinh và học sinh được hạnh phúc mỗi khi đến trường, trong mỗi tiết học. Giáo dục đạo đức, tình cảmcho học sinh THPT. Học sinh hứng thú, tích cực học tập. - Giúp cho giáo viên có giải pháp để có thể giải tỏa được những áp lực, sự căng thẳng trong quá trình dạy học và giáo dục của mình. Từ đó trở nên yêu nghề và thành công trong sự nghiệp trồng người của mình. - Giúp cho mục tiêu xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực thành công. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh đặc biện là giảm tình trạng bỏ học của trường miền núi. 3. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu thực trạng tâm lý của học sinh và giáo viên khi đến trường và giải pháp nhằm xây dựng lớp học hạnh phúc trường THPT Lang Chánh. Thời gian nghiên cứu đề tài từ năm học 2017- 2018 đến năm 2018-2019. 4. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài tôi đã sử dụng các nhóm phương pháp: + Nhóm phương pháp lý thuyết: Nghiên cứu các văn bản tài liệu về khái niệm hạnh phúc có liên quan đến đề tài. + Nhóm phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Rút ra từ quá trình làm công tác chủ nhiệm và giảng dạy trong hai năm học + Phương pháp điều tra xã hội học. + Phương pháp sử dụng toán thống kê. + Phương pháp so sánh. II. NỘI DUNG SÁNG KẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lý luận: 1.1 Khái niệm hạnh phúc: + “Hạnh phúc là cảm xúc vui sướng, hài lòng của con người trong cuộc sống khi được đáp ứng, thỏa mãn các nhu cầu cầu vật chất và tinh thần”. Hạnh phúc cá nhân gắn liền với hạnh phúc của xã hội, không có hạnh phúc riêng lẻ. + Hạnh phúc của học sinh trung học rất đơn giản và có thể thực hiện được như: - Luôn cố gắng và đạt được kết quả cao trong học tập không phụ lòng ông bà cha mẹ. - Luôn được sự động viên, khen ngợi của mọi người về thành tích học tập cũng như hành động, cư xử của mình. - Được sống và học tập trong một môi trường thân thiện, gia đình, người thân tạo điều kiện vật chất, tinh thần trong khả năng hiện có phục vụ cho học tập và rèn luyện. - Được thầy cô và bạn bè yêu mến, tôn trọng, được tiếp thu kiến thức tiên tiến của nhân loại và vận dụng nó vào đời sống, làm hành trang cho bản thân. Được chia sẻ với mọi người về những điều mà mình biết, được khẳng định và trải nghiệm. + Hạnh phúc cá nhân gắn liền với hạnh phúc xã hội. [2] 1.2 Lớp học hạnh phúc: Lớp học hạnh phúc là nơi giúp giáo viên và học sinh hình thành và duy trì các trạng thái cảm xúc tích cực. Mỗi lớp học hạnh phúc sẽ tạo nên một môi trường học đường mà ai tham gia cũng cảm thấy hạnh phúc. Được tham gia vào các lớp học hạnh phúc sẽ giúp cho mỗi cá nhân thiết lập được các tình cảm lành mạnh, góp phần phát triển nhân cách tốt đẹp. [3] Lớp học hạnh phúc là lớp học có sự tương tác chủ động, tích cực với xúc cảm dương tính từ hai phía: nhà tổ chức và chủ thể thực hiện. Lớp học hạnh phúc là điểm đến mà mỗi cá nhân cảm thấy muốn đến, khi đến có những hứng thú, có niềm vui, có sự mong chờ, có rung cảm... Lớp học hạnh phúc là nơi có thể cảm nhận được sự an toàn, sự nâng đỡ hay sự thú vị khi có nhiều điều nằm trong nhu cầu được thỏa mãn... HS đến trường như thế nào là hạnh phúc, có thể quy thành một mệnh đề: mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Cần khẳng định không quá lý tưởng đến mức vui mà không nhớ hay không hiểu nhiệm vụ thay vào đó là thực hiện nhiệm vụ một cách chủ động, tích cực với sự thoải mái, khao khát, cố gắng tích cực nhất. Bên cạnh đó, người học cảm thấy có niềm tin, có rung động, có động lực khi đến lớp và dễ nhớ nhung nếu không đến lớp... Kết quả thống kê của Đại học Sư phạm TP.HCM khảo sát trên 181 học sinh THCS, học sinh mong muốn 10 điều giáo viên sẽ thay đổi để việc học được hạnh phúc hơn cho kết quả khá bất ngờ. Kết quả thống kê như sau: • 92,8% mong giáo viên cười nhiều hơn. • 84% mong giáo viên nhẹ nhàng hơn khi học sinh làm sai. • 82,4% mong giáo viên đừng phê bình trước mặt bạn bè. • 82,4% được tổ chức học tập xen kẽ vui chơi. • 75,4% mong giáo viên đừng bắt học thuộc lòng quá nhiều. • 74% mong giáo viên đừng nhắc lại môn học này là quan trọng. • 70,2% mong giáo viên khen thưởng nhiều hơn trách móc. • 66,3% mong giáo viên bớt bài tập về nhà. • 62,4% mong được tăng cường thực tế, khám phá thực tiễn. • 60% mong giáo viên khác nhận suy nghĩ và hành vi của các em dù nó khác thường và không được như mong đợi. [4] 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 2.1. Về giáo viên: Trường THPT Lang Chánh đóng trên địa bàn của một huyện miền núi có đội ngũ giáo viên còn trẻ nên nhiệt tình trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh. Tuy nhiên đội ngũ giáo viên luôn biến động, một số năm gần đây do thiếu giáo viên mỗi giáo viên phải dạy thêm giờ nhiều, giáo viên còn trẻ nên kinh nghiệm giảng dạy và giáo dục chưa nhiều. Số lượng giáo viên ở dưới xuôi lên công tác chiếm phần đông nên tính ổn định không cao. Qua buổi giao ban GVCN đầu năm tôi đã thực hiện điều tra khảo sát toàn bộ giáo viên với câu hỏi “ Thầy cô có hạnh phúc khi đến trường không?” Kết quả đa số các thầy cô rất ít hạnh phúc khi đến trường, nguyên nhân chủ yếu là do giáo viên bị áp lực từ nhiều phía: + Trước hết, chúng ta không thể không nói tới áp lực đến từ nội dung kiến thức, chương trình. Thứ hai là áp lực từ kết quả thi, thành tích trong giáo dục. Thứ ba là áp lực đến từ phụ huynh học sinh, tâm lý giao khoán con cho giáo viên. Thứ tư là áp lực đến từ xã hội. Dư luận xã hội luôn đặt kì vọng cao cho giáo viên đứng lớp và ngành Giáo dục. Theo quan niệm từ xưa đến nay, giáo viên phải là những người chuẩn mực nhất, vừa có tài vừa có tâm. Thế nhưng, thực tế cho thấy, với sự phát triển của báo chí, của truyền thông mạng thì các tồn tại của ngành Giáo dục, của giáo viên dù là nhỏ nhất cũng được đưa lên với những tiêu đề giật gân. Và cuối cùng đó là áp lực đến từ chính bản thân mỗi giáo viên, mỗi giáo viên luôn muốn làm tròn các vai xã hội của mình. Do đó, chúng ta đã tự đưa chúng ta và học sinh vào những khuôn khổ, những đích do chúng ta tự đặt ra mà đôi khi không phù hợp với người học. Giáo viên luôn mong muốn học sinh phải yêu thích bộ môn của mình, phải học đều các môn, phải ngoan ngoãn lễ phép và phải thế này, thế kia... + Giáo viên luôn mong muốn học sinh phải hoàn thành tốt mọi điều mà mình lập trình sẵn. Có như vậy mới là con ngoan, trò giỏi. Và thế là, dồn tất cả mọi áp lực lên vai người giáo viên. Rồi giáo viên đã dồn tất cả những áp lực ấy lên đôi vai bé nhỏ của học trò lúc nào không hay. Đến khi thực tế học trò không đạt được những kì vọng: học tập không tiến bộ, không chăm chỉ và có thái độ không đúng đắn...Khiến cho chúng ta nhiều lúc cảm thấy chán nản, mệt mỏi, đam mê, nhiệt huyết với nghề giảm sút. Thậm chí có giáo viên còn định bỏ nghề.. Và thế là với giáo viên và học sinh mỗi ngày đến trường không còn là mỗi ngày vui; lớp học không còn là lớp học theo đúng nghĩa của giáo dục. 2.2. Về học sinh: Trường THPT Lang Chánh có tổng số học sinh 1037 (tính đến 18/9/2017) trong đó dân tộc thái chiếm 53,04%, dân tộc mường chiếm 35,58%, dân tộc kinh chiếm 11,19%, dân tộc ê đê chiếm 0,19%. Tỉ lệ học sinh nữ chiếm 50,24%. Do trường đóng trên địa bàn miền núi nên tỉ lệ hộ nghèo và cận nghèo chiếm gần 48%. Học sinh của nhà trường cơ bản các em ngoan. Tuy nhiên chất lượng đầu vào của học sinh còn thấp so với các huyện khác. Học sinh ở phân tán trên khắp địa bàn huyện, điều kiện đi lại khó khăn do đó việc duy trì sĩ số, nề nếp còn nhiều bất cập. Số lượng học sinh hộ nghèo gia tăng. Ý thức học tập của một bộ phận học sinh chưa cao, động cơ học tập chưa rõ ràng. Còn một bộ phận phụ huynh do mưu sinh nên chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em phó thác việc học tập cho nhà trường. Tôi đã tiến hành khảo sát về tâm lý của 41 HS lớp 12A3 (Năm học 2017-2018) vào tháng 9/2017 và và 39 HS lớp 10A2 (Năm học 2018-2019) vào tháng 9/2018 với câu hỏi "Các em có hạnh phúc khi đến trường không?" thể hiện qua bảng sau: Mức độ 12A3 10A2 1 Chưa bao giờ hạnh phúc % 4,9 2,5 2 Hiếm khi hạnh phúc % 34,1 30,7 3 Thỉnh Thoảng hạnh phúc % 43,9 46,3 4 Thường xuyên hạnh phúc % 17,1 20,5 Từ bảng kết quả cho thấy tỉ lệ học sinh vẫn có những học sinh hiếm khi hạnh phúc khi đến trường và tỉ lệ học sinh và thỉnh thoảng hạnh phúc cao hơn rất nhiều tỉ lệ học sinh thường xuyên hạnh phúc. Vẫn có học sinh thường xuyên hạnh phúc khi đến trường nhưng tỉ lệ rất thấp. Điều đó chứng tỏ rằng học sinh hai lớp tuy khác nhau nhưng cảm giác được hạnh phúc khi đến trường đều rất ít. + Nguyên nhân học sinh lớp ít hạnh phúc: - Nguyên nhân chủ quan: Ý thức học tập của một bộ phận học sinh chưa cao, động cơ học tập chưa rõ ràng, đến trường chỉ vì bố mẹ mong muốn. Chất lượng đầu vào thấp, học sinh chậm tiếp thu, kiến thức nền tảng môn học rất thấp nên học lên bậc trung học cảm thấy khó khăn chán nản vì học kém. Bản thân học sinh luôn cảm thấy kém cỏi, thiếu tự tin, ngại giao tiếp, không biết thể hiện bản thân,Một bộ phận không bao giờ hạnh phúc đến trường vì bị thú vui lôi kéo như nghiện game, chơi đánh bài, - Nguyên nhân khách quan: Do áp lực trong giờ học, thi cử và sự kì vọng của thầy cô và phụ huynh; Thầy cô hay quát mắng nặng lời với học sinh trước đám đông, nhất là HS phạm lỗi; Giáo viên dạy không gây hứng thú cho người học; khiến học sinh ủ dũ, buồn ngủ. Có giáo viên luôn tạo áp lực quá sức cho HS, khiến giờ học căng thẳngDo bạo lực học đường, do không được chia sẻ, được quan tâm từ bạn bè và thầy cô. 3. Giải pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường THPT Lang Chánh: Từ thực trạng nêu trên tôi đưa ra một số giải pháp để cải thiện hạnh phúc của giáo viên và học sinh ở trường học như sau: 3.1. Đổi mới tiết sinh hoạt lớp, tăng cường giáo dục đạo đức, giá trị sống và kĩ năng sống cho học sinh. - Tiên học lễ, hậu học văn_ Giáo viên nên coi trọng việc rèn luyện đạo đức của học sinh trước khi truyền thụ kiến thức. Dạy các em biết lễ phép với người lớn, kính trên nhường dưới, tôn trọng thầy cô giáo, hòa đồng, giúp đỡ bạn bèthực hiện tốt nội quy của trường và của lớp đề ra. - Giá trị sống cần thiết với học sinh THPT: hòa bình, hợp tác, hạnh phúc, yêu thương, khoan dung, khiêm tốn, trung thực, trách nhiệm, tôn trọng và đoàn kết. Học tập giá trị sống giúp các em tôn trọng bản thân và người khác, biết cách hợp tác, xây dựng và duy trì tình đoàn kết; suy nghĩ tích cực, hoàn thiện nhân cách, biết tạo dựng cho mình cuộc sống hạnh phúc. Đồng thời GVCN trang bị kỹ năng sống cho học sinh như kỹ năng giao tiếp, sáng tạo, hòa nhập, ứng phó với các tình huống trong cuộc sống, kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, quan sát, chia sẻ trong nhóm, kiến thức giới tính, kỹ năng chống lại sự cám dỗ của tệ nạn xã hội, chống xâm phạm tình dục, kỹ năng ứng phó với tai nạn đuối nước; Kỹ năng ứng phó với các tình huống bạo lực học đườngRèn luyện kỹ năng sống có ý nghĩa rất lớn đối với học sinh cấp 3_lứa tuổi có những chuyển biến phức tạp về tâm sinh lý. GVCN cần đổi mới tiết sinh hoạt lớp trở nên phong phú, ý nghĩa và tích cực hơn. Ngoài việc nhận xét tình hình hoạt động của lớp, triển khai kế hoạch mới, GVCN nên dành nhiều thời gian cho việc tổ chức các hoạt động vừa vui vẻ vừa bổ ích. Mỗi ngày GVCN nên dành 15 phút đầu giờ để quản lý học sinh, khởi động một ngày học và có thể nắm bắt được những nguy cơ có thể xảy ra. Đầu tiên GVCN lập kế hoạch sinh hoạt (Sinh hoạt 15 phút đầu giờ, sinh hoạt cuối tuần) theo từng tuần, từng tháng vào thời gian cụ thể nào, giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống nào. Tiếp đến là xây dựng nội dung kịch bản, phân công nhiệm vụ, duyệt phần chuẩn bị của học sinh rồi tiến hành sinh hoạt. Ví dụ: KẾ HOẠCH SINH HOẠT TUẦN 1 Ngày Nội dung Thứ 3 Sinh hoạt 15 phút đầu giờ Trò chơi : Tấm thiệp yêu thương Mục đích: Giáo dục về lòng yêu thương, tạo không khí vui vẻ, hợp tác Cách chơi: Lớp chia làm 4 tổ, mỗi tổ được trang bị giấy A4 và bút màu. Trong thời gian 5 phút các tổ hãy cụ thể hóa tình yêu thương của mình vào tấm thiệp và có 1 phút để thuyết trình. Ban giám khảo : GVCN và Cán bộ lớp Thứ 4 Sinh hoạt 15 phút đầu giờ Đọc sách về kiến thức giới tính Mục đích: Giáo dục giới tính và phòng chống nạn xâm phạm tình dục trẻ em. GVCN liên hệ với giáo viên phụ trách văn thư của trường để mượn sách cho học sinh đọc vào đầu buổi 15 phút đầu giờ và giờ ra chơi giữa các tiết học, sau đó trả về thư viện vào cuối buổi học. Học sinh và giáo viên thảo luận vào buổi sinh hoạt sau. Thứ 5 Sinh hoạt 15 phút đầu giờ Trò chơi: Học sinh tập làm giáo viên Mục đích: tạo sân chơi cho học sinh có cơ hội thể hiện mình và hiểu được quá trình giảng dạy của giáo viên. Từ đó, mỗi học sinh ý thức hơn trong học tập để không phụ lòng thầy cô của mình. Cách chơi: Giáo viên cho học sinh đăng kí tham gia thi, mỗi thí sinh cần chuẩn bị một chủ đề hay nội dung môn học mà mình yêu thích, chuẩn bị trước ở nhà với nội dung đơn giản trình bày trước lớp trong 10 phút với tư cách là 1 giáo viên. Đánh giá: Tất cả học sinh trong lớp bỏ phiếu lựa chọn bạn được yêu thích nhất. Thứ 6 Sinh hoạt 15 phút đầu giờ Trò chơi: Hãy làm theo tôi nói, không làm theo tôi làm Mục đích: Tạo không khí vui vẻ Cách chơi: Bạn lớp phó văn thể thực hiện một động tác nhưng lại yêu cầu một động tác khác nếu ai làm sai sẽ thua. Thứ 7 Sinh hoạt 15 phút đầu giờ Sinh hoạt văn nghệ: Hát múa theo yêu cầu Mục đích : Học sinh vui vẻ, gần gũi với nhau SH cuối tuần Xây dựng mục tiêu và nội quy lớp học: Mục đích: Giáo dục giá trị hợp tác và trách nhiệm xây dựng tập thể lớp Dựa vào nội quy chung của nhà trường, các em học sinh thảo luận cùng nhau đặt mục tiêu cho lớp ở năm học này và thống nhất nội quy riêng cho lớp học. Các buổi sinh hoạt có tổ chức với nội dung phong phú: các trò chơi khởi động, câu đố vui, các trò chơi phỏng theo các game show truyền hình đặc sắc, hay đơn giản là nghe và cảm nhận một bài hát, một mẩu chuyện hay một đoạn phim tổ chức diễn đàn để các em nêu lên cảm nhận, bài học hay ý nghĩa của mình về những gì mình được nghe, đã đọc và được thấy. Cho các em xem những video về tấm gương người thật việc thật trong cuộc sống để các em hiểu hơn về giá trị của cuộc sống, quý trọng những gì mình đang có, nuôi dưỡng sự biết ơn và sự bao dung, lòng thương cảm. Trong đó tôi đề việc nuôi dưỡng lòng biết ơn thì học sinh sẽ có động lực rất lớn để học tập tốt và trở thành con người có nhân cách tốt đẹp. Ngoài ra, GVCN luôn động viên và khích lệ cùng các em tham gia các hoạt động ngoại khóa do các Đoàn thanh niên, Công Đoàntổ chức, sát cánh với các em trong các phong trào văn hóa, văn nghệ, TDTT nhân ngày 20/11, 26/3Các em được trải nghiệm, được vui chơi, được hợp tác và chia sẻ từ đó sẽ hiểu, yêu thương nhau, xây dựng một tập thể lớp đoàn kết, hạnh phúc. Qua các buổi sinh hoạt lớp hay các hoạt động cùng với lớp GVCN có thể lắng nghe, cảm thông, hiểu được tính cách, tâm tư, tình cảm của các em và thấy được điều tốt đẹp trong chính mỗi học sinh và yêu mến các em hơn. Sự tiến bộ của các em hằng ngày qua cách cư xử, lời nói và thái độ trong giờ học sẽ tạo động lực cho mỗi giáo viên mỗi khi đến lớp. Từ đó GVCN có thể dễ dàng định hướng sửa chữa lỗi lầm khi phạm lỗi, giải quyết vấn đề theo hướng tích cực. Ngược lại học sinh được tham gia các buổi sinh hoạt sinh động, hiểu được giá trị sống tốt đẹp sẽ là kim chỉ nam cho những hành động đúng đắn. Các em được trang bị đầy đủ kỹ năng sống sẽ biết bảo vệ bản thân, có khả năng hòa nhập với cuộc sống trong mọi hoàn cảnhkhông còn bị stress, biết cách quản lý cảm xúc, giải quyết các vấn đề tránh xảy ra bạo lực học đường. Khi đó cả thầy và trò sẽ muốn đến lớp mỗi ngày, đó là hạnh phúc. Buổi sinh hoạt cuối tuần: Tập làm giáo viên của các em học sinh GVCN đồng hành cùng các em tham gia thi các trò chơi dân gian GVCN đồng hành cùng các em tham gia thi các trò chơi dân gian GVCN tham gia cùng học sinh lớp thiết kế bảng mục tiêu lớp học vui vẻ trong buổi Hoạt động ngoại khóa: Lớp học vui vẻ và bảo vệ quyền trẻ em Việc giáo dục đạo đức, giá trị và kỹ năng sống của các em không chỉ không là nhiệm vụ riêng của nhà giáo dục mà cần sự hợp tác rất lớn từ gia đình và xã hội. Nên trong cuộc họp phụ huynh đầu năm học GVCN thống nhất với phụ huynh hợp tác chặt chẽ trong việc giáo dục học sinh, thường xuyên trao đổi thông tin với nhau về tình hình học tập và rèn luyện của học sinh, kịp thời tác động khi cần thiết. 3.2. Giáo viên phải mạnh dạn thay đổi bản thân để xây dựng lớp học hạnh phúc: Qua số liệu điều tra nêu trên ta thấy rằng học sinh có hạnh phúc hay không phụ thuộc phần lớn vào giáo viên giảng dạy và giáo viên bộ môn trực tiếp giảng dạy lớp mình. Vì vậy mỗi giáo viên phải là người tiên phong cho việc thay đổi lớp học truyền thống, mạnh dạn thay đổi cái lối mòn cũ để hướng tới một phương pháp dạy học tích cực và phù hợp với nhu cầu
Source: https://suadieuhoa.edu.vn
Category : Chuyện Vặt