Quân đội nhân dân Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt

” Quân đội Việt Nam ” đổi hướng tới đây. Đối với những định nghĩa khác, xem Quân đội Việt Nam ( xu thế )

Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng chính của Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Theo Bộ Quốc phòng Việt Nam, sứ mệnh của quân đội là “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”.[12] Ngày truyền thống là ngày 22 tháng 12 hàng năm. Quân kỳ là quốc kỳ Việt Nam có thêm dòng chữ “Quyết thắng” màu vàng ở góc phía trên bên trái. Mười lời thề danh dự của quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam nói rằng quân đội có nhiệm vụ: “không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa, tinh thần quốc tế vô sản, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.[13]

Danh xưng

Quân đội nhân dân Việt Nam thường được viết tắt là “Quân đội Nhân dân”. Tên được đặt bởi Hồ Chí Minh vì ông cho rằng đây là quân đội “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ”. Sau này, Đảng Cộng sản Việt Nam mở rộng thêm: “có nguồn gốc nhân dân, bảo vệ tính mạng, tài sản và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ nền độc lập thống nhất và bản sắc dân tộc”.[14]

Tên gọi qua những thời kỳː [ 15 ]

  • Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (12/1944)
  • Việt Nam Giải phóng quân (5/1945)
  • Vệ quốc đoàn (9/1945)
  • Quân đội Quốc gia Việt Nam (5/1946)[16]
  • Quân đội nhân dân Việt Nam (9/1954)

Khẩu hiệu

Khẩu hiệu của Quân đội nhân dân Việt Nam là :

Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì Chủ nghĩa Xã hội; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.[17]

Khẩu hiệu được trích từ bài phát biểu của quản trị Hồ Chí Minh trong buổi lễ kỷ niệm 20 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam ( 22/12/1944 – 22/12/1964 ) [ 18 ] vào tối ngày 29/12/1964 tại Nhà khách Bộ Quốc phòng ( Thành Phố Hà Nội ). [ 19 ]

Ngoài ra còn có khẩu hiệu khác là “Trung với nước, hiếu với dân”. Nhiều người thường bị nhầm lẫn câu nói này với câu nói bên trên. Đây thực ra là một câu nói khác, được thêu trên lá cờ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cho Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn vào năm 1946. Ở đây, “Trung là trung với Tổ quốc, Hiếu là hiếu với nhân dân”.[20]

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, được sự giúp đỡ hết lòng của nhân dân, quân đội ta hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ trao cho, đã có truyền thống vẻ vang là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, chiến đấu anh dũng, công tác và lao động tích cực, tiết kiệm, cần cù, khiêm tốn giản dị, đoàn kết nội bộ, đồng cam cộng khổ với nhân dân, luôn luôn sẵn sàng khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ. Bộ đội ta là bộ đội nhân dân, bộ đội cách mạng có truyền thống anh dũng, khắc khổ, kiên nhẫn, cần cù, chất phác, việc khó khăn nguy hiểm mấy cũng không sợ, nhất định làm cho kỳ được. Đó là truyền thống, đạo đức, tác phong tốt, phải luôn được giữ vững và phát triển”.[21][22] Nhà nước Việt Nam nói: “ngoài mục tiêu, lý tưởng vì nhân dân phục vụ, chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam không có mục tiêu, lý tưởng nào khác”.[23]

Quá trình tăng trưởng

Buổi lễ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập với 34 người theo thông tư của quản trị Hồ Chí Minh. [ 24 ]Ngày 15 tháng 5 năm 1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu Quốc quân và đổi tên thành Việt Nam Giải phóng quân, trở thành lực lượng quân sự chiến lược hầu hết của Mặt trận Việt Minh thực thi thành công xuất sắc cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền sở tại trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. [ 24 ]Từ năm 1945 đến năm 1949, Giải phóng quân phải chiến đấu với đối thủ cạnh tranh mạnh hơn hẳn là quân đội Thực dân Pháp, tuy nhiên bằng sách lược cuộc chiến tranh hài hòa và hợp lý, Giải phóng quân ngày càng tăng trưởng mặc kệ việc quân Pháp liên tục càn quét, khiến quân Pháp sa lầy vào một đại chiến tiêu tốn tốn kém và ngày càng kiệt sức. Từ năm 1945 đến đầu năm 1950, Giải phóng quân đã tăng trưởng từ một đội quân nhỏ gồm vài nghìn người trở thành Quân đội Quốc gia Việt Nam với quân số khoảng chừng 50.000 người, tổ chức triển khai thành 40 chi đội. Đến cuối năm 1950, Giải phóng quân giành thắng lợi lớn trong Chiến dịch Biên giới đồng thời quy đổi vị thế từ phòng thủ sang phản công .Sau Chiến dịch Biên giới, biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc được khai thông, Việt Nam khởi đầu nhận được sự viện trợ vũ khí của khối Xã hội chủ nghĩa ( Liên Xô, Trung Quốc và 1 số ít nước Đông Âu ), Giải phóng quân tăng trưởng vượt bậc cả về số lượng và năng lực chiến đấu. Năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam đổi tên thành ” Quân đội nhân dân Việt Nam “. Sau đó, thành lập những đại đoàn quân nòng cốt 308, 304, 312, 320, 316, 325, 351, binh chủng pháo binh cũng được thành lập. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, Quân đội nhân dân Việt Nam lập nên Chiến thắng Điện Biên Phủ trước thực dân Pháp. [ 24 ]Cho đến kết thúc cuộc cuộc chiến tranh Đông Dương năm 1954, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có tổng quân số khoảng chừng 25 vạn quân nòng cốt và vài chục vạn dân quân địa phương. Sau hiệp định Geneva, bộ phận quân đội nhân dân ở miền Nam tập trung ra Bắc. Quân đội Việt Nam khởi đầu kiến thiết xây dựng quân đội theo hệ chính quy thống nhất. Bộ Chính trị quyết định hành động cắt giảm 8 vạn quân nòng cốt, đưa 3 vạn quân sang làm kinh tế tài chính, chỉ giữ lại 17 vạn quân nòng cốt, đồng thời thành lập thêm những quân chủng Hải quân, Phòng không Không quân, binh chủng xe tăng, lực lượng biên phòng, …

Ngày 15 tháng 2 năm 1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, là một bộ phận của Quân đội nhân dân chiến đấu ở miền Nam. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tiến hành chiến tranh chống Mỹ với chiến lược được gọi là “toàn dân, toàn diện, lâu dài”, tiêu biểu là chống chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam; chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc mà nổi bật là chiến dịch Điện Biên Phủ trên không tháng 12 năm 1972; Cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975 với kết thúc là chiến dịch Hồ Chí Minh vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Trong thời kỳ 1961 – 1975, tài liệu Mỹ thường phân biệt 2 lực lượng : Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ( Mỹ gọi là ” Việt Cộng ” ) với Quân đội nhân dân Việt Nam ( Mỹ gọi là ” quân Bắc Việt Nam ” ). Nhưng thực ra, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được hình thành từ một bộ phận du kích của Quân đội nhân dân Việt Nam. [ 25 ] Sự phân biệt này của Mỹ xuất phát từ việc Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và nhà nước Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam về pháp lý có sự độc lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng vẫn chịu sự chỉ huy về Đảng của Đảng Lao động Việt Nam ( do Hiệp định Genève không cấm ), nhằm mục đích có vị thế hài hòa và hợp lý trên bàn đàm phán tại Paris. Sau năm 1975, khi đã ” công khai minh bạch ” sự chỉ huy của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa so với Mặt trận Giải phóng, nhà nước Cách mạng lâm thời và Quân Giải phóng trong suốt đại chiến, thì Quân giải phóng được xem là một phần Quân đội nhân dân Việt Nam như thực chất khi thành lập nó .Cho đến năm 1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có 1,24 triệu quân nòng cốt và hàng triệu dân quân địa phương, đứng thứ 4 về tổng quân số trên quốc tế, chỉ sau Liên Xô, Hoa Kỳ và Trung Quốc [ 26 ]. Năm 1977, Việt Nam chủ trương giảm số quân nòng cốt xuống còn 85 vạn người ( 60 vạn quân thường trực chiến đấu, 25 vạn quân tham gia sản xuất kinh tế tài chính ). Tuy nhiên, khi tình hình biên giới Tây Nam phức tạp, Việt Nam buộc phải chuyển những đơn vị chức năng kinh tế tài chính sang chiến đấu và tăng quân số lên trên 1 triệu người. Đồng thời hơn 5 vạn bộ đội được đưa sang Lào để bảo vệ sự không thay đổi tại Lào .Ngày 23 tháng 12 năm 1978, Quân đội Việt Nam kêu gọi 25 vạn quân nòng cốt mở cuộc phản công trước cuộc tiến công của Quân đội Campuchia Dân chủ ( Khmer Đỏ ). Sau đó đã phối hợp với những lực lượng vũ trang Campuchia, đánh tan 21 sư đoàn quân Campuchia Dân chủ, xóa bỏ chính sách diệt chủng. [ 24 ] Ngày 17/2/1979, Trung Quốc đem 60 vạn quân đánh vào biên giới phía Bắc Việt Nam, cuộc cuộc chiến tranh chỉ lê dài trong 30 ngày, nhưng sau đó 2 bên căng thẳng mệt mỏi suốt 10 năm. Trong năm 1979 – 1980, Việt Nam phải duy trì quân số nòng cốt đến trên 2 triệu người, đến năm 1983 giảm xuống còn 1,6 triệu người. Năm 1989, sau khi thông thường hóa quan hệ với Trung Quốc và rút quân khỏi Lào và Campuchia, quân đội Việt Nam giảm xuống còn khoảng chừng 60 vạn người .Năm 2010, theo Việt Nam công bố, lực lượng thường trực Việt Nam gồm bộ đội nòng cốt và bộ đội địa phương có tổng quân số khoảng chừng gần nửa triệu người, và lực lượng quân dự bị khoảng chừng 5 triệu người. [ 24 ]

Tham chiến

Quân đội nhân dân Việt Nam đã chiến đấu với nhiều vương quốc, chính thể, tổ chức triển khai, … như : Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Quốc gia Việt Nam / Việt Nam Cộng hòa, Nước Hàn, Đất nước xinh đẹp Thái Lan, Philippines, Úc, New Zealand, Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia – Cộng hòa Khmer, Campuchia Dân chủ ( Khmer Đỏ ), FULRO, tổ chức triển khai du kích của người H’Mông tại Lào ( trong cuộc chiến tranh Việt Nam nói riêng và những cuộc xung đột, cuộc chiến tranh khác tại Đông Dương nói chung ) .Những đại chiến / chiến dịch tiêu biểu vượt trội gồm có :
Theo thống kê của Việt Nam thì đến năm 2012, Việt Nam có 1.146.250 liệt sĩ và khoảng chừng 600.000 thương bệnh binh, trong đó có 191.605 liệt sĩ quyết tử trong Chiến tranh Đông Dương, 849.018 liệt sĩ quyết tử trong Chiến tranh Việt Nam, số còn lại quyết tử trong những cuộc cuộc chiến tranh khác, hoặc quyết tử khi triển khai trách nhiệm trong thời bình. [ 27 ]

Nhiều liệt sĩ cũng đồng thời là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì: “Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đã có gần 160.000 đảng viên hy sinh…”.[28]

Hoàng Văn Nhủng là liệt sỹ tiên phong, quyết tử ngày 5 tháng 2 năm 1945 khi đánh diệt đồn Đồng Mu ( Bảo Lạc, Cao Bằng ), trong trận đánh thứ ba của Quân đội nhân dân Việt Nam ( khi đó mang tên là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ) .Tính tới năm 2012, cả nước có 9.637 khu công trình ghi công liệt sĩ trên cả nước ( nghĩa trang, đài tưởng niệm, đền thờ ). Tỉnh có nhiều liệt sĩ nhất cả nước là Quảng Nam với 65.000 liệt sĩ ( ngoài những tỉnh Quảng Nam còn có hơn 30.000 thương bệnh binh ). Huyện có nhiều liệt sĩ nhất cả nước là huyện Điện Bàn ( cũng thuộc tỉnh Quảng Nam ) với hơn 19.800 liệt sĩ. [ 29 ] [ 30 ]

Các trận đánh / chiến dịch lớn

Tặng thưởng

Trong suốt những đại chiến đã có tổng số :
Sáng ngày 21 tháng 12 năm 2019, Quân đội nhân dân Việt Nam được trao tặng Huân chương Quân công hạng nhất từ thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đại diện thay mặt Nhà nước Việt Nam trao. [ 33 ]Từ tháng 12/1994 đến hết năm 2001, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng và truy tặng thương hiệu cao quý ” Bà mẹ Việt Nam anh hùng ” cho 44.253 bà mẹ có chồng hoặc con cháu là binh sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam đã quyết tử, trong đó : [ 34 ]

  • Miền Bắc (từ Quảng Bình trở lên): 15.033 mẹ.
  • Miền Nam (từ Quảng Trị trở xuống): 29.220 mẹ.
  • Tỉnh Quảng Nam là tỉnh có nhiều Bà mẹ Việt Nam anh hùng nhất với 11.658 mẹ.

Tính đến tháng 7/2020, Nhà nước Việt Nam đã phong tặng hoặc truy tặng 139.275 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, trong đó tỉnh Quảng Nam có số lượng Bà mẹ Việt Nam anh hùng được phong tặng và truy tặng cao nhất ( 15.261 mẹ ), tiếp theo là Bến Tre với 6.905 mẹ, Tỉnh Quảng Ngãi có 6.802 mẹ, Thành Phố Hà Nội có 6.723 mẹ .

Tướng lĩnh tiêu biểu vượt trội

Nhiệm vụ

Quân đội nhân dân Việt Nam có 02 nhiệm vụ, bao gồm: chiến đấu, công tác phục vụ nhân dânsản xuất để hoàn thành mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị của Tổ quốc, bảo vệ bản sắc dân tộc.[35]

Chiến đấu

Đây là trách nhiệm then chốt của Quân đội nhân dân Việt Nam. Để hoàn thành xong trách nhiệm này, Quân đội được tổ chức triển khai có hai thành phần : Quân đội thường trực làm nòng cốt cùng lực lượng thoáng rộng quần chúng vũ trang. Ba thứ quân : Bộ đội nòng cốt, Bộ đội địa phương và Dân quân tự vệ. [ 36 ]

Hướng tổ chức là tinh gọn, được trang bị các loại vũ khí, khí tài phù hợp, thường xuyên thực hành huấn luyện, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, vững vàng bản chất chính trị, nắm chắc tình hình đất nước, khu vực và quốc tế để có các biện pháp tác chiến phù hợp, đẩy mạnh hợp tác quốc tế.[35]

Công tác Giao hàng nhân dân

Quân đội nhân dân luôn gắn bó mật thiết, đồng cam cộng khổ với nhân dân, thực sự là cầu nối vững chãi và đáng tin cậy của chính quyền sở tại với nhân dân. Quân đội còn có trách nhiệm tuyên truyền đường lối, chủ trương, chủ trương của chính quyền sở tại, phản bác lại những vấn đề bóp méo, hạ nhục, không đúng thực sự. Bên cạnh đó, quân đội là một trong những lực lượng nòng cốt trong công tác làm việc cứu hộ cứu nạn, cứu nạn, giúp dân phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, lao vào trong gian truân để cứu tính mạng con người và gia tài của nhân dân. [ 36 ] Giải quyết hậu quả cuộc chiến tranh gồm có rà, phá bom mìn, tẩy độc môi trường tự nhiên và những chủ trương hậu chiến. Tại những khu vực khó khăn vất vả, vùng sâu, vùng xa, quân đội chịu cả nghĩa vụ và trách nhiệm phổ cập giáo dục và chăm nom y tế với người dân. [ 35 ]

Sản xuất

Các đơn vị chức năng quân đội đã tận dụng mọi tiềm năng, nguồn lực lao động, đất đai, kỹ thuật, … Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tạo nguồn thực phẩm bổ trợ tại chỗ, góp thêm phần giữ không thay đổi và cải tổ đáng kể đời sống vật chất cho bộ đội. Các xí nghiệp sản xuất, xí nghiệp sản xuất công nghiệp quốc phòng đã sản xuất được một số ít loại vũ khí, trang bị khí tài tương thích, phân phối nhu yếu tác chiến văn minh, nhu yếu chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Nhiều đơn vị chức năng làm kinh tế tài chính của quân đội đã sản xuất và kinh doanh thương mại có hiệu suất cao, trở thành những tổ chức triển khai, tập đoàn lớn kinh tế tài chính lớn của quốc gia, đi đầu trong việc phối hợp kinh tế tài chính với quốc phòng, góp thêm phần xứng danh vào công cuộc tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội và tăng cường, củng cố quốc phòng, bảo mật an ninh của quốc gia … Hoạt động sản xuất kinh tế tài chính của lực lượng quân đội còn hướng tới giúp dân khai hoang, tái tạo đồng ruộng, thiết kế xây dựng ruộng lúa nước, trồng cỏ Giao hàng chăn nuôi gia súc ; tương hỗ vốn làm nhà và cây con giống, giúp sức về kỹ thuật sản xuất, chống di dân và tiếp đón dân ở tuyến sau đến định cư, giúp dân không thay đổi đời sống vĩnh viễn. [ 37 ] Đến nay, Quân đội đã kiến thiết xây dựng được 23 khu kinh tế tài chính quốc phòng đây là tác nhân quan trọng trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, triển khai chủ trương dân tộc bản địa, tôn giáo, tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội gắn với tăng cường quốc phòng – bảo mật an ninh của quốc gia. Doanh nghiệp quân đội ngoài Giao hàng những tiềm năng quân sự chiến lược còn Giao hàng nhu yếu dân sự, thực thi góp vốn đầu tư trong và ngoài nước. [ 38 ] Quân đội sản xuất kiến thiết xây dựng kinh tế tài chính nhằm mục đích góp thêm phần gìn giữ năng lượng sản xuất quốc phòng, nâng cao năng lượng chiến đấu cho Quân đội và góp thêm phần tạo nguồn thu cho ngân sách quốc phòng .

Tổ chức

Theo Luật Quốc phòng năm 2005 ( luật số 39/2005 / QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 ), Quân đội nhân dân là một bộ phận và là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân, gồm có Lực lượng Thường trực và Lực lượng Dự bị Động viên. Lực lượng Thường trực của Quân đội nhân dân có Bộ đội Chủ lực và Bộ đội Địa phương. Cấp tổ chức triển khai của Quân đội nhân dân Việt Nam từ thấp đến cao là Tiểu đội, Trung đội, Đại đội, Tiểu đoàn, Trung đoàn, Lữ đoàn, Sư đoàn ( trước kia gọi là Đại đoàn ). Cấp cao nhất là Quân đoàn, lúc bấy giờ có 4 quân đoàn là những quân đoàn 1, 2, 3, 4. Đây chính là quân nòng cốt cơ động .Từ cấp tiểu đoàn trở lên có ban chỉ huy gồm cấp trưởng, cấp phó, tham mưu trưởng và cấp phó đảm nhiệm công tác làm việc chính trị, theo chính sách một thủ trưởng. Trước đây, khi thực thi chính sách ” 2 thủ trưởng “, thì ngoài thủ trưởng quân sự chiến lược ( đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng … ), từ cấp đại đội trở lên còn có thủ trưởng chính trị, được gọi là chính trị viên ( ở cấp đại đội và tiểu đoàn ) hoặc chính ủy ( ở cấp trung đoàn trở lên ). Cấp thủ trưởng chính trị này từ sau Chiến tranh Việt Nam đã chuyển thành cấp phó đảm nhiệm công tác làm việc chính trị. Theo nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X, chính sách chính ủy – chính trị viên lại được Phục hồi trong toàn quân từ năm 2006 .Quân đội nhân dân Việt Nam gồm có bộ đội nòng cốt, bộ đội địa phương ; những quân khu, quân chủng, bộ đội biên phòng, quân đoàn, binh chủng ; mạng lưới hệ thống những đơn vị chức năng bảo vệ phục vụ hầu cần, kỹ thuật ; những học viện chuyên nghành, nhà trường, viện điều tra và nghiên cứu và những đơn vị chức năng kinh tế tài chính – quốc phòng .

2020

Lãnh đạo

Xem thêm: Danh sách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam

quản trị nước có vai trò là Thống lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam và giữ vai trò là quản trị Hội đồng Quốc phòng và An ninh trải qua Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Quân ủy Trung ương là cơ quan chỉ huy của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập vào tháng 1 năm 1946 do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam trực tiếp làm Bí thư Quân ủy Trung ương. Do Việt Nam là nước đơn đảng, Đảng chỉ huy Nhà nước và xã hội, lãnh đạo Quân đội trực tiếp, tuyệt đối nên Tổng Bí thư ( kiêm nhiệm Bí thư Quân ủy Trung ương ) là chức vụ chỉ huy cao nhất so với quân đội .Các chức vụ cao nhất trong Quân đội nhân dân Việt Nam gồm Bộ trưởng Bộ quốc phòng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng, có cấp bậc quân hàm cao nhất là Đại tướng. Ngoài ra, trước đây từng có chức vụ Tổng Tư lệnh những lực lượng vũ trang do Đại tướng Võ Nguyên Giáp nắm giữ .

Cấp bậc quân hàm

Theo Lệnh số 32/2014/L-CTN ngày 09/12/2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc công bố Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 27/11/2014, các cấp bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam được quy định như sau:

Màu viền của quân hàm bộc lộ những quân chủng : Lục quân : màu đỏ tươi ; Phòng không – Không quân : màu xanh da trời ; Hải quân : màu tím thanMàu nền là màu vàng. Quân hàm Bộ đội biên phòng có màu viền là màu đỏ tươi tương tự như như Lục quân, nhưng có màu nền xanh lá cây. Quân hàm Cảnh sát biển có màu viền vàng nhưng có màu nền là màu xanh nước biển .

  • Cấp bậc cao nhất: Sĩ quan cấp tướng

Phù hiệu

Quân phục

Ngày 26 tháng 8 năm 2009, Thủ tướng Việt Nam ra Quyết định số 109 / 2009 / QĐ-TTg pháp luật về quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu lễ phục của Quân đội nhân dân Việt Nam .Từ ngày 22 tháng 12 năm 2009, những sĩ quan Việt Nam cũng sử dụng quân phục mới kiểu K-08. [ 39 ]

Trang bị và viện trợ

Quân đội nhân dân Việt Nam không công khai minh bạch những thông tin về vũ khí, khí tài của mình nên việc biết cụ thể số lượng hay đúng chuẩn hàng loạt chủng loại là rất khó. Hiện nay, quân đội nhân dân Việt Nam đang chiếm hữu một lượng vũ khí lớn từ thời Chiến tranh Việt Nam được sản xuất ở Liên Xô, Trung Quốc và Hoa Kỳ ( do sau năm 1975 đã tịch thu được một số lượng vũ khí tương đối lớn do Hoa Kỳ viện trợ cho quân đội TP HCM trước đó ). Số vũ khí này lúc bấy giờ ngày càng lỗi thời làm giảm sức mạnh đối sánh tương quan với quân đội những nước khác là yếu tố lớn so với quân đội Việt Nam. Từ năm 1990 trở đi, những bạn hàng vũ khí của Việt Nam được lan rộng ra với Ấn Độ, Israel, Bắc Triều Tiên, Nga, … [ 40 ] Ngoài ra lúc bấy giờ, Việt Nam còn nhận được viện trợ khí tài từ Mỹ, Nước Hàn và Nhật Bản. [ 41 ] [ 42 ] [ 43 ]Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam ( 1954 – 1975 ) và cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam ( 1979 – 1989 ), Việt Nam phần nhiều dựa trọn vẹn vào những mạng lưới hệ thống vũ khí trang bị có nguồn gốc từ Liên Xô. Liên Xô sụp đổ năm 1991 đã kết thúc quy trình tiến độ viện trợ và Việt Nam mở màn phải giao dịch thanh toán tiền mua vũ khí, trang bị bằng ngoại tệ hoặc bằng hàng đổi hàng .Việt Nam đặt việc tăng trưởng kinh tế tài chính lên số 1 và chỉ duy trì mức tăng tiêu tốn quốc phòng một cách nhỏ giọt. Việt Nam không triển khai những đợt shopping hay tăng cấp vũ khí lớn. Phải tới tận cuối những năm 1990, chính phủ nước nhà Việt Nam công bố một loạt những chương trình shopping những mạng lưới hệ thống vũ khí trang bị tân tiến. Theo đó, Việt Nam chậm rãi tăng trưởng thủy quân và không quân để trấn áp những vùng nước nông và vùng độc quyền kinh tế tài chính .Hầu hết những chương trình shopping quốc phòng đa phần được triển khai để bảo vệ ưu tiên này. Việt Nam đã mua 1 số ít máy bay chiến đấu và tàu chiến có năng lực tác chiến cao. Việt Nam cũng lên kế hoạch tăng trưởng nền công nghiệp quốc phòng với ưu tiên cho thủy quân, có sự phối hợp với những liên minh cũ ( Nga, Đông Âu, Ấn Độ ) .

Hành khúc

Bài hát duyệt binh

Những bài hát được sử dụng khi làm lễ duyệt binh lớn :

Đánh giá

Trung tá Pháp Marcel Bigeard (sau này là Bộ trưởng Quốc phòng Pháp), đã có kinh nghiệm 9 năm chiến đấu ở Đông Dương, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ từ lúc xây dựng cứ điểm cho đến khi đầu hàng, đã bày tỏ sự kính trọng của mình đối với Quân đội nhân dân Việt Nam: “Tôi đã thấy họ khởi sự từ những khẩu súng bất kỳ như súng săn và sau đó, tháng này qua tháng khác, họ được tổ chức thành những nhóm nhỏ, rồi từ các nhóm nhỏ thành trung đội, từ các trung đội lên đại đội, từ đại đội lên tiểu đoàn và lữ đoàn và cuối cùng là thành các sư đoàn đủ quân. Tôi đã thấy tất cả những điều này và tôi có thể nói với các vị rằng họ đã trở thành những người lính bộ binh vĩ đại nhất trên thế giới. Những người lính dẻo dai này có thể đi bộ 50 km trong đêm tối bằng sức của một bát cơm, trên những đôi giày ba-ta và hát vang trên đường ra trận. Theo quan điểm của tôi, họ đã trở thành những người lính bộ binh ngoại hạng và họ đã đánh bại được chúng ta [quân đội Pháp]”.[45]

Thiếu tá đặc nhiệm Mỹ Charles A. Beckwith, từng tham gia Chiến tranh Triều Tiên rồi sau đó tiếp tục sang Việt Nam tham chiến, đã ca ngợi Quân đội nhân dân Việt Nam: “Tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để có được 200 người lính như họ. Họ là những người lính giỏi nhất mà tôi từng thấy. Họ tận tâm và thuộc loại cừ khôi. Tôi chưa từng thấy lính nào giỏi như họ”.[46]

Tướng Merrill McPeak, Tham mưu trưởng Không quân Hoa Kỳ, từng là phi công chiến đấu ở Việt Nam. Trong phim “The Vietnam War”, ông kể lại: “bằng phương tiện quan sát hiện đại gắn trên máy bay, ông ta có thể săn lùng những chiếc xe vận tải của Việt Nam như săn thỏ. Nhưng bắn nhiều rocket, thả nhiều bom đến như vậy, nhưng không lực Mỹ vẫn không tài nào ngăn nổi sự vận chuyển trên đường Trường Sơn”. Cho đến nay, Merrill McPeek nói rằng ông vẫn “ức tới nghẹn cổ” và kết luận: “Ông đã ủng hộ nhầm phe, nếu có thể được thì ngày ấy ông nên chiến đấu cùng đội ngũ với các chiến sỹ can trường, quả cảm ở bên phía Việt Nam”.[46]

Trong một cuộc khảo sát sau cuộc chiến với các sĩ quan Hoa Kỳ từng phục vụ trong chiến tranh Việt Nam, 44% đánh giá Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam là “thiện chiến và gan góc”. Một sĩ quan nhận xét: “Có một khuynh hướng đánh giá thấp đối thủ. Trong thực tế, họ là địch thủ giỏi nhất mà chúng ta (quân đội Mỹ) từng phải đối mặt trong lịch sử”.[47]

Một số vấn đề tương quan

Xem thêm

• Bí thư Quân ủy Trung ương• Bộ trưởng Bộ Quốc phòng• Mười lời thề danh dự của quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam• Quân ủy Trung ương

Chú thích

Tham khảo

  • Bộ Sách Lịch sử Quân sự Việt Nam, 14 tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, HN, 1996, 2013, 2014.
  • Bách khoa Toàn thư Quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015 gồm 6 tập (Lịch sử Quân sự; Địa lý Quân sự; Hậu cần-Kỹ thuật Quân sự; Chính trị-Nhân vật-Tổ chức Lực lượng vũ trang; Nghệ thuật Quân sự; Tổng dẫn).
  • Lịch sử Tư tưởng Quân sự Việt Nam, 5 tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, HN, 2014.
  • Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.
  • 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam – Biên niên sự kiện, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2004.
  • Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 1 và Tập 2, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 1994.
  • Lịch sử Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam Tập 1, Tập 2, Tập 3, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN 2009, 2010, 2011.
  • Lịch sử Công tác Đảng, công tác chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2002.
  • Lịch sử Tổng cục Kỹ thuật (1974-2014), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2014.
  • Lịch sử Tổng cục Chính trị (1944-2014), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2014.
  • Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2015.
  • Bộ Tổng Tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, HN, 2011.
  • Lịch sử Quân giới Việt Nam (1954-1975), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 1995.
  • Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2007.
  • Lịch sử Đoàn 559-Bộ đội Trường Sơn-đường Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 1999.
  • Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, HN, 1996.
  • Những vị tướng lừng danh trong Lịch sử dân tộc, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2014.
  • Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước-Thắng lợi và bài học, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, HN, 1995.
  • Lịch sử Công tác đảng, công tác chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2002.
  • Biên niên sự kiện lịch sử Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam 1954-1975, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 1992.
  • Việt Nam những sự kiện 1945-1986, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, HN, 1990.

Liên kết ngoài

Alternate Text Gọi ngay