Con người có tổ, có tông… | Báo Pháp luật Việt Nam điện tử

( PLVN ) – Với mỗi người con dân đất Việt, thờ cúng tổ tiên là một nét văn hóa truyền thống. Đó là sự tưởng niệm, tôn thờ những người có công sinh thành, nuôi dưỡng và những người có công với dân, với nước. Ý thức về tổ tiên, về những người có công với dân, với nước sẽ mang lại giá trị nhân văn thâm thúy, nó khởi phát mối thiện tâm trong mỗi con người, trong hội đồng xã hội …

Biết ơn tiên tổ

Tục thờ cúng tổ tiên của người Việt có nguồn gốc từ nền kinh tế tài chính nông nghiệp trong xã hội phụ quyền xưa. Khi Nho giáo gia nhập vào Nước Ta, chữ hiếu được tôn vinh, đã làm cho tục thờ cúng tổ tiên có một nền tảng triết lý thâm thúy. Đến thế kỷ XV, Nho giáo chiếm địa vị lợi thế trong xã hội, nhà Lê đã thể chế hóa việc thờ cúng tổ tiên. Bộ luật Hồng Đức lao lý rõ, việc con cháu phải thờ cúng tổ tiên 5 đời ( tự mình là con, tính ngược lên 4 đời là : cha mẹ, ông bà, cụ, kỵ ) ; ruộng hương hỏa, ruộng đèn nhang, cơ sở kinh tế tài chính để duy trì thờ cúng tổ tiên dù con cháu nghèo cũng không được cầm bán … Đến thời Nguyễn, nghi lễ thờ cúng tổ tiên được ghi rõ trong sách “ Thọ mai gia lễ ” .

Thế nên có thể nói, thờ tổ tiên là một nét đẹp văn hóa của người Việt xưa và nay. Bàn thờ tổ tiên là một phần không thể thiếu trong mỗi gia đình, không kể giàu nghèo hay địa vị xã hội. Không nhất thiết phải là mâm cao cỗ đầy, chỉ cần một nén hương (nhang) lên bàn thờ tổ tiên trong ngày lễ, Tết, hay ngày giỗ, con cháu trong gia đình cũng thể hiện được tấm lòng thành kính, hướng về cội nguồn, tưởng nhớ những người thân đã khuất.

Bạn đang đọc: Con người có tổ, có tông… | Báo Pháp luật Việt Nam điện tử

Từ lâu, thờ cúng tổ tiên, ông bà đã trở thành một phong tục, là chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc làm người ; đồng thời là một phần quan trọng trong đời sống tâm linh của người Nước Ta. Dân Việt trọng lễ nghĩa, hiếu thảo với cha mẹ và có hiếu với ông bà, tổ tiên, với nguồn gốc của mình .
Bàn thờ là nơi tưởng niệm, nó như một quốc tế thu nhỏ của người đã khuất. Trong mỗi mái ấm gia đình, bàn thờ cúng tổ tiên được đặt ở vị trí sang trọng và quý phái nhất và trở thành nơi con cháu “ trò chuyện ” trong những ngày tuần, ngày giỗ, ngày Tết, hoặc khi có việc trọng đại … Có thể nói, mọi biến cố trong mái ấm gia đình đều được gia chủ báo cáo giải trình với gia tiên. Việc lúc bấy giờ hầu hết những cặp cô dâu, chú rể mới đều làm lễ vu quy hay nghinh hôn trước bàn thờ cúng gia tiên cũng là một điểm rất độc lạ của văn hóa truyền thống Nước Ta .
Đối với Nước Ta, quan hệ huyết thống khá phức tạp. Gia đình chỉ là một đơn vị chức năng độc lập tương đối chính bới giữa những mái ấm gia đình trên một khoanh vùng phạm vi nào đó lại sống sót một quan hệ ràng buộc mà người ta gọi là họ hàng, dòng tộc. Và theo pháp luật huyết thống ấy, nhiều mái ấm gia đình sẽ họp thành một ngành, nhiều ngành họp thành một họ. Mỗi họ có một ông Tổ chung. Vì vậy, ngoài ngày giỗ tổ tiên tại gia, người Việt còn có ngày giỗ họ .
Trưởng tộc là người được hưởng hương hỏa của tổ tiên nên có nghĩa vụ và trách nhiệm phải lo việc làm giỗ họ. Trong ngày giỗ họ, con cháu đều phải góp giỗ. Mỗi họ đều có một cuốn gia phả ghi chép họ tên, chức tước, ngày tháng sinh tử của tổ tông và người trong họ theo thứ tự để mọi người cùng dòng họ “ vấn tổ tầm tông ” …

Con người   có tổ, có tông… ảnh 1
Văn hóa thờ cúng tổ tiên của người Việt .

Đã bao thế kỷ trôi qua, cung cách và quan niệm thờ phụng tổ tiên của người Việt Nam xét theo góc độ nào đó đã có nhiều thay đổi nhưng ý nghĩa lớn nhất, vẫn giữ nguyên. Người Việt Nam coi việc thờ phụng tổ tiên là một trong những nguyên tắc đạo đức làm người. Và tư duy này đã đi vào ca dao tục ngữ: “Con người có tổ, có tông/Như cây có cội, như sông có nguồn”; “Con chim có tổ, con người có tông/Con chim tìm tổ, con người tìm tông”…

Trân trọng tiền nhân

Nếu nói người Việt thờ cúng tổ tiên là ở góc độ gia đình thì ở góc độ làng xã đó là thờ thành hoàng làng, ở góc độ quốc gia dân tộc đó là thờ vua tổ của một nước. Thờ cúng tổ tiên là một nét văn hóa của người Việt, đó là sự tưởng nhớ, tôn thờ những người có công sinh thành, nuôi dưỡng những người có công với dân, với nước. Thờ phụng các Vua Hùng và những vị anh hùng có công với dân với nước là sự thể hiện lòng hiếu thảo, sự biết ơn, tôn kính công đức của các bậc tiền nhân, là cơ sở hình thành lòng nhân ái, tính cộng đồng. 

Trong bài viết “ Những giá trị đặc trưng của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ”, ông Nguyễn Đắc Thủy – Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ đã nhấn mạnh vấn đề, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có vị trí quan trọng trong đời sống niềm tin của người Việt ; trải qua biến cố thăng trầm của lịch sử vẻ vang trong khi nhiều tôn giáo tín ngưỡng dân gian khác đã có nhiều biến hóa, nhưng tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương với những giá trị đặc trưng đã có sức sống lâu bền và ngày càng lan tỏa can đảm và mạnh mẽ trở thành truyền thống văn hóa truyền thống độc lạ của người Nước Ta. Chính do đó, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là mô hình di sản tập quán xã hội được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa truyền thống phi vật thể đại diện thay mặt của trái đất .
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương mang giá trị lòng yêu nước bởi đây là sự tôn trọng sùng bái công lao to lớn của những Vua Hùng. Công đức những Vua Hùng được lưu truyền từ đời này qua đời khác, được hội đồng tôn thờ, biết ơn là hình tượng của anh hùng lập nước. Có thể coi đây là cội nguồn của ý thức yêu nước của dân tộc bản địa Việt .
Ý thức về những Vua Hùng cũng chính là ý thức về cội nguồn dân tộc bản địa, quốc gia từ đó hình thành niềm tin tự cường dân tộc bản địa, ý thức độc lập tự chủ. Dân tộc ta trải qua thăng trầm của bao cuộc cuộc chiến tranh nhưng lòng yêu nước, ý thức độc lập tự chủ được những thế hệ người Việt tiếp nối nhau chưa khi nào tắt, tạo nên một giá trị đặc trưng điển hình nổi bật trong mạng lưới hệ thống giá trị đạo đức của người Việt .
Theo ông Nguyễn Đắc Thủy, giá trị ý thức yêu nước, ý thức tự cường dân tộc bản địa được khởi nguồn từ sự khai sinh lập nước của những Vua Hùng được những thế hệ người Việt gìn giữ, tiếp nối và khẳng định chắc chắn. Ngay từ năm 40-43 sau Công nguyên trong cuộc cuộc chiến tranh chống quân xâm lược, nữ tướng Hai Bà Trưng đã đọc lời thề Sông Hát trước khi xung trận : “ Một, xin rửa sạch quốc thù / Hai, xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng ”. Rồi “ bản Tuyên ngôn độc lập tiên phong ” của Lý Thường Kiệt : “ Sông núi nước Nam, vua Nam ở ” ; và đến thời đại Hồ Chí Minh với câu nói bất hủ : “ Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước ” …
Đất nước đã bước sang thập kỷ thứ ba của thế kỷ 21 với Cách mạng công nghệ tiên tiến 4.0. Nhưng không cho nên vì thế mà tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên, thờ cũng Hùng Vương của người Việt bị quên lãng. Khi kinh tế tài chính – xã hội ngày càng tăng trưởng thì nhu yếu đời sống niềm tin ngày càng lớn. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương mang giá trị văn hóa truyền thống tâm linh thâm thúy. Đời sống vật chất, những giá trị văn hóa truyền thống tâm linh giúp con người cân đối trong thực tại. Ý thức về tổ tiên giúp con người có niềm tin, tạo nên động lực vượt qua cái trần tục đời thường, thôi thúc tìm tòi vượt qua trạng thái hiện tồn để hướng về phía trước .
“ Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là hình tượng cội nguồn của vương quốc, dân tộc bản địa, phản ánh một ý thức hệ thâm thúy như một sự minh triết được cha ông truyền lại cho đến thời điểm ngày hôm nay nên mang giá trị lịch sử vẻ vang rõ nét. Giá trị dễ nhận thấy của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là giá trị lịch sử dân tộc. Tín ngưỡng không phải là lịch sử dân tộc đích thực, mà là lịch sử dân tộc hiện lên phản ánh qua cảm hứng, qua niềm tin, là ý thức của người dân về lịch sử dân tộc ” – ông Nguyễn Đắc Thủy nhấn mạnh vấn đề .

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương – nguồn tài nguyên du lịch nhân văn phong phú

Và cuối cùng, trong sự nghiệp phát triển của xã hội thời hiện đại, các giá trị văn hoá càng có ý nghĩa và gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế. Tín ngưỡng thờ Hùng Vương mà dạng thức cụ thể sinh động nhất là Lễ hội Đền Hùng đang là sản phẩm độc đáo, đặc biệt của kinh tế du lịch, vừa là tài nguyên du lịch nhân văn phong phú và có giá trị. 

Bản chất của du lịch là văn hóa truyền thống nói chung và văn hóa truyền thống tâm linh nói riêng, nên nhu yếu du lịch là do văn hóa truyền thống quyết định hành động. Thế nên, hàng năm Lễ hội Đền Hùng đã mang một ý nghĩa to lớn, một giá trị văn hóa truyền thống thâm thúy và độc lạ vì thế có sức hấp dẫn và mời gọi mãnh liệt tới hội đồng dân cư. Khu Di tích Lịch sử Đền Hùng đón 6-8 triệu hành khách tham gia Lễ hội Hùng Vương và thăm Khu Di tích lịch sử dân tộc Đền Hùng mỗi năm. Đây là yếu tố thuận tiện cho ngành kinh tế tài chính du lịch khai thác tiềm năng và tăng trưởng. Xét ở góc nhìn này, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn phong phú và mê hoặc, là mẫu sản phẩm du lịch văn hóa truyền thống đặc biệt quan trọng cho ngành kinh tế tài chính du lịch .

Alternate Text Gọi ngay