Chủ tịch Quốc hội Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt
Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trước đây còn gọi là Trưởng Ban Thường trực Quốc hội (1945–1960) hoặc Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1960–1976), là người đứng đầu cơ quan lập pháp Quốc hội Việt Nam và Ủy ban Thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 2013, Quốc hội là “cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.[2] Chủ tịch Quốc hội Việt Nam được bầu bởi các đại biểu Quốc hội trong kỳ họp đầu tiên của một nhiệm kỳ quốc hội.[3] Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội làm chủ tịch, đây là cơ quan thường trực kiểm soát hoạt động của Quốc hội khi Quốc hội không thực hiện việc họp.[4] Chủ tịch và các thành viên khác của Ủy ban Thường vụ bị miễn nhiệm khi Quốc hội kết thúc nhiệm kỳ, thường là mỗi 5 năm một lần. Sáu mươi ngày trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội khóa mới phải được bầu xong.[5] Chủ tịch Quốc hội là người chủ tọa các phiên họp của Quốc hội bao gồm việc ký chứng thực Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội và giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội.[4] Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch Quốc hội.[6]
Quyền hạn và uy tín của Chủ tịch Quốc hội đổi khác trong suốt những năm qua. Điển hình hai Chủ tịch Quốc hội tiên phong là Nguyễn Văn Tố và Bùi Bằng Đoàn không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong khi đó, Chủ tịch Quốc hội thứ 4 là Trường Chinh lại được cho là người quyền lực tối cao thứ hai trong Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ tháng 3 năm 2021, Chủ tịch Quốc hội Nước Ta là ông Vương Đình Huệ .
Chủ tịch Quốc hội Nước Ta có tên bắt đầu là Trưởng ban Thường trực Quốc hội với người kiêm nhiệm tiên phong là Nguyễn Văn Tố, một người không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Vào ngày 3 tháng 3 năm 1946, dưới sự chủ trì của Nguyễn Văn Tố, Quốc hội – cơ quan cơ quan chính phủ tiên phong của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được sinh ra. Bùi Bằng Đoàn sau đó tiếp sau chức vụ của ông Tố kể từ ngày 9 tháng 11 năm 1946, ông là một nhà thơ và cũng không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, ông được báo chí truyền thông Nước Ta ca tụng là một nhà cách mạng tận tụy. [ 8 ] Đến năm 1955, Tôn Đức Thắng tiếp sau Bùi Bằng Đoàn và thành Chủ tịch Quốc hội tiên phong là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. [ 9 ] Trong tiến trình này, dưới chính thể Nước Ta Cộng hòa, Trương Vĩnh Lễ đã trở thành Chủ tịch Quốc hội tiên phong của nước này. Tuy nhiên đến năm 1963, chính quyền sở tại Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ khối gia tài của ông đã bị chính phủ nước nhà Dương Văn Minh thu giữ, đồng thời bãi bỏ chức vụ này cho đến năm 1975. [ 10 ] [ 11 ]
Trường Chinh sau đó trở thành Chủ tịch Quốc hội thứ tư và là người tại nhiệm lâu nhất trong lịch sử Việt Nam khi giữ chức vụ này từ năm 1960 đến năm 1981. Đồng thời, lúc bấy giờ ông còn kiêm nhiệm chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước vừa mới được thành lập.[12] Lúc này, tên gọi Trưởng ban Thường trực Quốc hội được thay đổi thành Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội.[13] Nguyễn Hữu Thọ sau đó kế nhiệm Trường Chinh vào năm 1981 làm Chủ tịch Quốc hội. Ông là người miền Nam đầu tiên giữ chức vụ này, tuy nhiên, ông không phải là thành viên của Bộ Chính trị.[14] Tên gọi chính thức Chủ tịch Quốc hội cũng được gọi từ giai đoạn này.[13] Đến năm 1987, Nguyễn Hữu Thọ thôi giữ chức và được kế nhiệm bởi Lê Quang Đạo, một người cũng không thuộc Bộ Chính trị. Tương tự như Nguyễn Hữu Thọ, thời gian giữ chức của ông Đạo cũng chỉ kéo dài một nhiệm kỳ.[15] Năm 1992, Nông Đức Mạnh được bầu làm Chủ tịch Quốc hội Việt Nam cho đến năm 2001. Ông là Chủ tịch Quốc hội đầu tiên xuất thân từ một dân tộc thiểu số ở Việt Nam – người Tày. Đồng thời, ông cũng là người đầu tiên sau Trường Chinh giữ vị trí Ủy viên Bộ Chính trị.[16] Kế nhiệm của ông Mạnh là Nguyễn Văn An, người giữ chức Chủ tịch Quốc hội từ năm 2001 đến năm 2006.[17] Đến năm 2006, Nguyễn Phú Trọng được bầu trở thành Chủ tịch Quốc hội Việt Nam.[18] Tuy nhiên, đến năm 2011, ông từ chức sau khi được bầu vào chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.[19] Nguyễn Sinh Hùng kế nhiệm sau đó.[20] Cho đến cuối tháng 3 năm 2016, với 92,5% số phiếu tán thành, Nguyễn Thị Kim Ngân trở thành Chủ tịch Quốc hội thứ 11 của Việt Nam, đồng thời bà cũng là người phụ nữ đầu tiên giữ cương vị này.[21] Đến ngày 31 tháng 3 năm 2021, Vương Đình Huệ được bầu lên nhậm chức Chủ tịch Quốc hội thay thế cho bà Ngân.[22]
Bạn đang đọc: Chủ tịch Quốc hội Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt
Quy trình bầu cử Chủ tịch Quốc hội[sửa|sửa mã nguồn]
Chủ tịch Quốc hội được bầu cử trong kỳ họp tiên phong của nhiệm kỳ Quốc hội mới. Theo Nghị quyết Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc khóa trước trình list đề cử để Quốc hội thực thi bầu cử Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội và Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ngoài ra, đại biểu Quốc hội cũng có quyền ra mắt thêm hoặc tự ứng cử vào những vị trí cần bầu cử. Sau đó, những đại biểu Quốc hội tranh luận tại Đoàn đại biểu Quốc hội cho đến khi Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa trước báo cáo giải trình Quốc hội hiệu quả đàm đạo tại Đoàn đại biểu ; trình Quốc hội list ứng cử do đại biểu Quốc hội ra mắt hoặc tự đề cử. Tại đây, Quốc hội liên tục bàn luận, biểu quyết trải qua list và xây dựng Ban kiểm phiếu để triển khai bầu cử trải qua hình thức bỏ phiếu kín. Sau khi hoàn tất quy trình bầu cử, ban kiểm phiếu kiểm phiếu và công bố tác dụng ; Quốc hội đồng thời luận bàn, biểu quyết trải qua nghị quyết bầu cử. Cuối cùng, Chủ tịch Quốc hội thực thi tuyên thệ trước toàn thể nhân dân. [ 23 ]Khi làm lễ nhậm chức, tân Chủ tịch Quốc hội thường phải triển khai tuyên thệ :
” Tuyệt đối trung thành với chủ với Tổ quốc, với Nhân dân, với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nỗ lực hoàn thành xong tốt trách nhiệm được Đảng, Nhà nước và Nhân dân phó thác “. [ 24 ]
Để được vào list ứng cử, một đại biểu cần phải bảo vệ tiêu chuẩn chung của Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đồng thời, đại biểu phải hiểu biết thâm thúy về pháp lý Nước Ta, pháp lý và thông lệ quốc tế ; có kinh nghiệm tay nghề và hoàn thành xong xuất sắc chức vụ bí thư tỉnh ủy, thành ủy hoặc trưởng ban, bộ, ngành ở Trung ương. Ngoài ra, đại biểu đó còn phải tham gia Bộ Chính trị đúng một nhiệm kỳ trở lên. [ 25 ]
Danh sách Chủ tịch Quốc hội[sửa|sửa mã nguồn]
Ghi chú:
- ^ Thứ tự chưa chính thức .
- ^ Ông Tôn Đức Thắng thế chỗ của Bùi Bằng Đoàn do lúc đó ông Đoàn đang bị ốm nặng. Tuy nhiên, ông Đoàn vẫn còn giữ chức Chủ tịch Quốc hội cho đến khi ông mất vào năm 1955. Do đó, Tôn Đức Thắng được xem là Chủ tịch Quốc hội trong quy trình tiến độ này .
- ^
Sinh ra tại Chợ Lớn Nam Kỳ (nay là Thành phố Hồ Chí Minh ) nên ông được xem là người đến từ miền Nam đầu tiên giữ chức vụ này.
- ^ Kiêm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước
- ^ Từ chức
- ^ Nguyễn Thị Kim Ngân là nữ Chủ tịch Quốc hội tiên phong của Nước Ta .
Danh sách nguyên Chủ tịch Quốc hội còn sống[sửa|sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2023, có 5 nguyên Chủ tịch Quốc hội còn sống. Nguyên Chủ tịch Quốc hội còn sống cao tuổi nhất là ông Nguyễn Văn An và trẻ nhất là Nguyễn Thị Kim Ngân. Chủ tịch Quốc hội qua đời gần đây nhất là ông Lê Quang Đạo khi ông qua đời vào ngày 24 tháng 7 năm 1999. [ 15 ] Dưới đây là list những Chủ tịch Quốc hội theo nhiệm kỳ :
- Văn Đào Hoàng (2008). Việt Nam Quốc Dân Đảng: lịch sử tranh đấu cận đại (1927-1954). Dorrance Publishing. ISBN 978-1-4349-9136-2.
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://suadieuhoa.edu.vn
Category : Hỏi Đáp