SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt các bài toán tính giá trị của biểu thức
Bạn đang xem
20 trang mẫu
của tài liệu “SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt các bài toán tính giá trị của biểu thức”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Bậc Tiểu học là bậc học đầu tiên đặt nền móng cho các bậc học khác. Ở Tiểu học, môn Toán có vị trí rất quan trọng nó cung cấp kiến thức, kỹ năng cơ bản ban đầu, đồng thời chuẩn bị cơ sở để tiếp tục học ở các lớp trên. Môn Toán giúp học sinh phát triển tư duy lô gíc trí thông minh, óc sáng tạo. Là công cụ cần thiết và liên quan đến các môn học khác, giúp con người nhận thức thế giới xung quanh để hoạt động hiệu quả trong thực tế. Ngoài ra, nó còn giúp con người có lí trí, đức tính cần cù vượt khó khăn, biết cách làm việc có kế hoạch, nề nếp và tác phong khoa học. Góp phần trong việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, chính xác và trung thực. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy môn toán lớp 3, tôi thấy mình phải trau rồi kiến thức, học tập nâng cao trình độ, tìm tòi vận dụng phương pháp dạy - học mới giúp học sinh nắm bắt kiến thức mới một cách nhanh nhất, hiệu quả và toàn diện nhất. Trong quá trình giảng dạy tôi thấy dạy Toán nói chung và dạy giải toán nói riêng gặp không ít những khó khăn với đa số học sinh vì ở lứa tuổi này tư duy còn hạn chế mà dạng toán “ Tính giá trị biểu thức” là một dạng toán khó đối với học sinh lớp 3. Hướng dẫn cho học sinh nhận biết các dạng của bài toán tính giá trị của biểu thức sẽ giúp học sinh hiểu nhanh và giải chính xác hơn, hiệu quả hơn là tiền đề để các em học tốt các dạng bài tính giá trị của biểu thức ở lớp 4, 5. Năm học 2017 -2018 bản thân tôi được phân công trực tiếp giảng dạy lớp 3A, tôi đã mạnh dạn áp dụng các biện pháp thực hiện vào dạy học sinh “Tính giá trị biểu thức”. Hết học kì I tôi đã khảo sát chất lượng về thực hiện giải dạng toán này gần 90 % học sinh đã làm tốt dạng toán tính giá trị biểu thức mà không bị nhầm lẫn cách tính. Tôi rất phấn khởi,...Từ đó tôi đã nghiên cứu và sử dụng sáng kiến " Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt các bài toán tính giá trị của biểu thức.” vào dạy học có hiệu quả trong những năm học vừa qua. Tôi đã mạnh dạn viết thành sáng kiến này. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Tìm ra những biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt các học toán tính giá trị biểu thức ở trường Tiểu học Thị Trấn Lang Chánh nói riêng và lớp 3 nói chung. Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Toán 3 giúp các em tiếp tục học tốt môn này ở các lớp trên. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. - Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt các bài toán tính giá trị của biểu thức. - Học sinh lớp 3A trường tiểu học Thị Trấn Lang Chánh. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu các tài liệu: Sách giáo viên, tài liệu hưỡng dẫn học toán 3, vở bài tập toán 3. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Thực trạng tổ chức dạy – học toán 3 ở trường TH Thị Trấn Lang Chánh. Trong quá trình thực hiện tôi đã đề ra các phương án, phù hợp với điều kiện của lớp mình và chỉ đạo tổ chức thực hiện. - Phương pháp điều tra: Điều tra hoàn cảnh gia đình học sinh, đặc điểm tâm lí của học sinh. - Phương pháp hỏi – đáp: Hỏi học sinh thích học toán, ngại học toán, nguyên nhân ngại học toán. - Phương pháp thống kê toán học: Kết quả khảo sát học sinh. - Phương pháp so sánh đối chiếu: Đối chiếu các số liệu thống kê trước và sau khi thực hiện. - Phương pháp luyện tập thực hành: Luyện tập và thực hành làm các bài toán tính giá trị biểu thức. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy – học Toán 3 ở trường Tiểu học. 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 HỌC TỐT CÁC BÀI TOÁN TÍNH GIÁ TRỊ BIỂU THỨC 2.1. Cơ sở lý luận. Dạy Toán học là dạy cho học sinh sáng tạo, rèn luyện các kỹ năng, trau dồi phẩm chất đạo đức, tính siêng năng, cần cù, chịu khó. Đó là phẩm chất quý báu của con người Việt Nam. Thông qua học toán để đức tính đó được thường xuyên phát huy và ngày càng hoàn thiện. Trong quá trình dạy học ở Tiểu học, toán là một trong những môn học giúp học sinh phát triển toàn diện. Môn toán có hệ thống kiến thức cơ bản cung cấp những kiến thức cần thiết, ứng dụng vào đời sống sinh hoạt và lao động. Những kiến thức kĩ năng toán học là công cụ cần thiết để học các môn học khác và ứng dụng trong thực tế đời sống. Toán học có khả năng to lớn trong giáo dục học sinh nhiều mặt như: phát triển tư duy lôgic, bồi dưỡng những năng lực trí tuệ ( trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh,. .. ). Giúp học sinh biết tư duy, suy nghĩ làm việc góp phần giáo dục những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp của người lao động. Giáo dục toán học là một bộ phận của giáo dục tiểu học. Do đó, môn Toán có nhiệm vụ góp phần vào thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu của bậc học. Đó là: trang bị cho học sinh một hệ thống kiến thức và kĩ năng cơ bản, cần thiết cho việc học tập tiếp hoặc đi vào cuộc sống. Giúp học sinh biết vận dụng kiến thức vào hoạt động thiết thực trong đời sống, từng bước hình thành, rèn luyện thói quen phương pháp và tác phong làm việc khoa học, phát triển hợp lí phù hợp với tâm lí của từng lứa tuổi. Tạo tiền đề cho học sinh học tốt các môn học khác. 2.2. Thực trạng. 2.2.1. Về phía giáo viên. Đa số giáo viên đều có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, yêu nghề. Bên cạnh đó vẫn có giáo viên không nắm được hoàn cảnh cũng như tâm lí học sinh, không nắm được lí do vì sao học sinh ngại học tính giá trị biểu thức, chưa nắm bắt được mối quan hệ của nội dung dạng toán này ở các lớp, chưa phân loại được đối tượng học sinh trong lớp để có kế hoạch phụ đạo cho học sinh chưa hoàn thành và bồi dưỡng được học sinh có khả năng hoàn thành tốt môn toán. Việc đánh giá, nhận xét học sinh chưa thường xuyên, liên tục. Chưa có hình thức thi đua, khen thưởng trong dạy học hoặc có nhưng chưa kịp thời. Việc sử dụng phương pháp dạy học còn đơn điệu, không linh hoạt. Các hình thức tổ chức dạy học chưa phong phú. 2.2.2. Về phía học sinh. Năm học 2017 – 2018, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 3A. Với tổng số là 29 học sinh. Tất cả các em đều cùng độ tuổi và đã hoàn thành chương trình lớp 2. Trong quá trình giảng dạy và dự giờ tôi thấy HS làm dạng bài tính giá trị biểu thức còn chưa tốt hay nhầm lẫn về cách thực hiện. Là lớp có nhiều đối tượng HS khác nhau nên phần nhiều các em đã làm bài đúng kết quả nhưng có em chưa nắm được cách làm phù hợp với từng dạng bài. Nhiều bài làm tính giá trị biểu thức cách giải chưa hợp lí. Mặt khác, các bài tính giá trị biểu thức có nhiều dạng bài. Do đó học sinh thường lúng túng khi gặp các dạng bài khác nhau, đặc biệt đối với dạng bài là biểu thức có phép tính cộng trừ nhân chia trong cùng một biểu thức, biểu thức có dấu ngoặc đơn ( ) dạng bài mới mà ở lớp 2 các em chưa được làm quen,... Học sinh còn ngại tính toán, không thích học toán tính giá trị biểu thức. Toán 3 đã có nhiều mạch kiến thức đòi hỏi các em phải tư duy, thực hành nhiều, phải biết nhận diện đúng dạng toán thì các em mới có thể làm đúng và yêu thích môn học. Nhưng nhiều em vẫn ngại học toán vì các em cho rằng Toán khó bởi các em không hiểu. Hơn nữa chủ yếu các bài toán tính giá trị biểu thức đều phải xác định thứ tự và thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân, chia tuy không khó như các bài toán có lời văn song dễ nhầm lẫn, hay sai. 2.2.3. Về phía phụ huynh: Là trường Tiểu học Thị Trấn vùng miền núi thuộc huyện nghèo, đa số phụ huynh là cán bộ, công chức đều rắt con quan tâm việc học tập, giáo dục và giúp đỡ các em hoàn thành hoạt động ứng dụng (Hoạt động cần người thân giúp đỡ ở gia đình); còn số phụ huynh làm nghề nông hay đi làm ăn xa (Bản Lưỡi, Bản Trải,.) chưa quan tâm được các em do sống xa nhà hoặc không biết cách dạy bảo các em. 2.2.4. Kết quả khảo sát thực trạng. Đề khảo sát chất lượng học sinh như sau: Đề bài: (Thời gian 30 phút) Bài 1: (2 điểm) Tính: 568 + 156 = 849 – 86 = 83 2 = 48 : 6 = Bài 2: (4 điểm) Tính giá trị của các biểu thức sau: a) 20 + 17 - 28 b) 35 – 4 7 c) 7 (17 – 9) d) 20 : 5 2 Bài 3: (4 điểm) Tính giá trị biểu thức sau bằng cách thuận tiện nhất: a) 25 7 + 25 3 b) 1 + 3 + 5 + 7 + 9 - Đa số các em đều có kết quả đúng song cách giải nhiều em còn chưa hợp lí, các em đã làm như sau: Bài 1: Tính: 568 + 156 = 742 849 – 86 = 763 83 2 = 166 48 : 6 = 8 - (Đa số HS thực hiện đã đúng, nhưng vẫn có học sinh sai vì quên không nhớ). Bài 2: Tính giá trị của các biểu thức sau: a) 20 + 17 - 28 = 37 - 28 = 9 - HS thực hiện đã đúng. b) 35 – 4 7 = 21 7 = 147 - (Thứ tự thực hiện phép tính chưa đúng dẫn đến giá trị của biểu thức cũng sai. Đối với biểu thức này nên thực hiện phép tính nhân trước). c) 7 (17 – 9) = 119 – 8 = 111 - (Chưa nắm được cách thực hiện phép tính dẫn đến giá trị của biểu thức cũng sai. Đối với biểu thức này nên thực hiện phép tính trong dấu ngoặc đơn trước). Bài 2: Tính giá trị biểu thức sau bằng cách thuận tiện nhất: a) 25 7 + 25 3 = 175 + 75 = 250 b) 1 + 3 + 5 + 7 + 9 = 4 + 12 + 9 = 16 + 9 = 25 - (Thứ tự thực hiện phép tính và kết quả là đúng nhưng tính bằng cách tính này chưa thuận tiện nhất). Nên cần phân biệt cách tính thuận tiện khác với cách tính thông thường, giúp ta tìm ra kết quả nhanh mà chính xác. Kết quả đạt được: Lớp Sĩ số Điểm 9 – 10 (T) Điểm 7 – 8 (H) Điểm 5 – 6 (H) Điểm dưới 5 (CHT) 3A 29 5 em 17,2% 6 em 20,7% 13 em 44,8% 5 em 17,2% - Từ kết quả khảo sát và qua thực tế giảng dạy, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, nghiên cứu tài liệu. Tôi đã rút ra được một số biện pháp giúp HS lớp 3 học tốt cách tính giá trị biểu thức tôi đã vận dụng vào thực tế giảng dạy và đạt hiệu quả. 3. Các biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt các bài toán tính giá trị của biểu thức 3.1. Tiến hành hỏi đáp sự hứng thú học Toán và không hứng thú học Toán. Tìm hiểu lí do. - Qua hỏi đáp trực tiếp tỉ lệ HS thích học Toán: 17em 58,6% - Số lượng học sinh còn ngại học Toán: 12em 41,4% - Đa số HS ngại học Toán trong lớp là học sinh nữ. Qua tìm hiểu nguyên nhân tôi được biết hầu hết các em nữ có khả năng sáng tạo hạn chế so với HS nam. Các em ngại học toán vì nhiều dạng bài khó nhớ và chán nản khi suốt ngày phải nhân chia tính toán, một mặt do không làm được bài nên dẫn đến ngại học. Nắm bắt được tâm lí của các em tôi quyết định phân dạng bài và đưa ra cách giải cho từng dạng bài tính giá trị biểu thức cũng như các dạng toán khác giúp HS hiểu bài làm được bài để HS tìm thấy hứng thú khi học Toán. 3.2. Nghiên cứu mối quan hệ và chuẩn bị hướng dẫn cho HS làm bài. - Trước hết ta nhận thấy các dạng bài tính giá trị biểu thức là một mạch kiến thức đồng tâm. Nếu ở lớp 2 biểu thức chỉ có một phép tính, thì mạch kiến thức lớp 3 tiếp thu từ dạng bài tính giá trị biểu thức ở lớp 2. Tuy nhiên ở lớp 3, việc tính giá trị biểu thức của học sinh được nâng cao thành các biểu thức có chứa các số có 2 chữ số, 3 chữ số, trong một biểu thức có các phép tính cộng, trừ, nhân chia, biểu thức có dấu ngoặc đơn và được mở rộng thêm phần tính giá trị biểu thức với các dạng bài tính bằng cách thuận tiện nhất, hợp lí, tính nhanh. Không chỉ đơn thuần tính các biểu thức mà kiến thức này còn được vận dụng phù hợp cho các bài toán giải kép làm tiền đề cho học sinh vận dụng giải các bài toán giải của các lớp 4, 5. Xác định được mối liên hệ của các mạch kiến thức tôi đã phân loại bài toán tính giá trị biểu thức thành các dạng bài, dạng bài sau vận dụng và phát triển từ dạng bài trước và phù hợp với sự phát triển các mạch kiến thức trong chương trình Toán 3, phù hợp với từng đối tượng học sinh trong cùng một lớp học. 3.3. Phân loại đối tượng học sinh. Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành phân loại đối tượng học sinh theo Thông tư 22 và văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGD ĐT: Hoàn thành tốt (T); Hoàn thành (H); Chưa hoàn thành (C). Thông qua việc họp phụ huynh đầu năm, tôi đã trao đổi với bố mẹ các em để nắm được hoàn cảnh gia đình, đắc điểm tâm lí của từng em. Từ đó nhận biết những yếu tố khách quan ảnh hưởng đến lực học của các em. Như vậy, thông qua việc phân loại đối tượng học sinh, tôi đã biết được tỉ lệ học sinh có lực học khác nhau trong lớp. Đó là cơ sở để tôi thực hiện công tác chủ nhiệm lớp như: Tôi chia lớp thành các tổ, các nhóm học tập có học sinh hoàn thành tốt, học sinh hoàn thành và chưa hoàn thành, phân cho học sinh hoàn thành tốt ngồi gàn, kèm cặp và giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành, học sinh chưa hoàn thành ngồi ở vị trí những bàn học phía trên của lớp để dễ tiếp thu bài và được giáo viên giúp đỡ kịp thời trong từng tiết học cúng như đánh gí sự tiến bộ của các em chính xác hơn. Họp phụ huynh học sinh lớp 3A Với việc thực hiện giải pháp trên, tôi đã xây dựng được công tác chủ nhiệm lớp ổn định, đánh giá học sinh theo tuần, theo tháng dễ dàng. Đắc biệt là xây dựng được đội ngũ Hội đồng tự quản của lớp có năng lực giúp đỡ các bạn cùng tiến bộ, nâng cao chất lượng đại trà và giúp các em có hứng thú, tự tin trong học tập. 3.4. Rèn cho học sinh những thói quen cần thiết trong quá trình học tập môn Toán và tính giá trị biểu thức. - Hình thành nề nếp học tập: Mọi học sinh phải độc lập suy nghĩ, làm việc tích cực. Có thói quen tự giác, chủ động khi làm bài, không quay cóp bài của bạn, không đưa thẻ cứu trợ khi chưa suy nghĩ và chưa đọc đề toán. Học sinh biết huy động các kiến thức của mình tham gia tích cực vào việc giải quyết nội dung, yêu cầu bài toán. - Rèn cho học sinh tính cẩn thận trong học tập như : Trước khi làm bài phải nháp. Không hiểu bài thì nên hỏi nhóm trưởng hoặc các bạn khác trong nhóm hoặc cô giáo. - Làm xong thử lại, khi thấy đúng kết quả mới chép vào vở. - Yêu cầu học sinh ở từng nhóm phải viết chữ số trong phép tính rõ ràng. Trình bày bài toán đúng, đẹp. - Tạo cho học sinh tính mạnh dạn để trao đổi ý kiến trong nhóm hoặc trước lớp vì sự hỗ trợ giữa các học sinh trong nhóm, lớp, góp phần làm các em mạnh dạn hơn hiểu bài sâu hơn. - Giúp học sinh tự tin hơn vào khả năng của bản thân, tự rút kinh nghiệm về cách học của mình. - Sau khi làm xong bài tập cho các em tự kiểm tra, đánh giá và sửa chữa bài làm của mình trước khi nộp bài. - Cần rèn ý chí vượt khó cho các em khi làm bài. Khi tính toán gặp các bài toán khó, giáo viên cần giúp các em có sự tự tin, không nên nản lòng. Khuyến khích các em tự lực làm bài, tìm tòi hướng giải quyết để đạt được kết quả cao trong học tập. 3.5. Lựa chọn các phương pháp dạy học toán tính giá trị biểu thức. a. Phương pháp dạy học trực quan: Do đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn ” và do tính chất đặc thù của các đối tượng Toán học tính trừu tượng và khái quát cao mà phương pháp trực quan có vai trò quan trọng trong quá trình dạy học Toán ở Tiểu học. Với những hình ảnh trực quan do các đồ dùng biểu diễn mang lại và lời giảng của giáo viên học sinh sẽ dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và lĩnh hội kiến thức Toán trừu tượng. Bản chất của phương pháp dạy học này là giáo viên đã tác động vào tư duy học sinh Tiểu học theo đúng quy luật nhận thức b. Phương pháp gợi mở – vấn đáp: Phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, bởi nó không bày đặt sẵn kiến thức mà giáo viên kích thích người học tự tìm kiến thức thông qua hệ thống câu hỏi. Phương pháp này rất phù hợp nó giúp người học tập dượt suy nghĩ và diễn đạt khi trả lời câu hỏi, kiến thức hình được thành theo cách này giúp học sinh nhớ lâu hiểu kỹ và tự tin hơn. Trong quá trinh gợi mở, với hệ thống câu hỏi giáo viên đưa ra, sau khi học sinh tìm được các câu trả lời đã giúp học sinh tìm ra thứ tự thực hiện và cách tính giá trị biểu thức và dễ dàng phát biểu thành quy tắc. c. Sử dụng phương pháp luyện tập - thực hành: Đây là một phương pháp thường dùng trong dạy học Toán ở Tiểu học. Bởi đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học mang nặng tính cụ thể. Vì thế các kiến thức và kỹ năng thường được hình thành thông qua thực hành – luyện tập. Phạm vi sử dụng phương pháp thực hành luyện tập là phổ biến ở trong tất cả các tiết học dạy tính giá trị biểu thức. d. Phương pháp giảng giải - minh họa: Đây là phương pháp cần thiết trong quá trình dạy tính giá trị biểu thức; vì có nhiều dạng và rất trừu tượng đối với học sinh lớp 3, các em khó có thể tự tìm ra được cách tính giá trinh biểu thức. Vì thế giáo viên cần sử dụng phương pháp này để giảng giải giúp học sinh hiểu được kiến thức, hình thành được quy tắc tính giá trị biểu thức. 3.6. Lựa chọn các hình thức dạy học.. a. Chia nhóm học tập: Có rất nhiều cách chia nhóm như: chia nhóm ngẫu nhiên, nhóm cùng trình độ, nhóm cùng sở thích, nhóm cùng đặc điểm, ... Dù chia nhóm bằng cách nào thì cuối cùng mỗi nhóm phải có số học sinh gắn với nhiệm vụ học tập. Chương trình học VNEN học sinh đã được ngồi học theo 1 nhóm từ 4em đến 6 em. Vậy giáo viên chỉ căn cứ vào nội dung các hoạt động học tập để chia nhóm đôi, nhóm 4 hay nhóm 6 cho phù hợp. Ví dụ: - Bài 3 : Cộng các số có ba chữ số (có nhớ) – Tài liệu hướng dẫn học Toán 3 – Tập 1A - Trang 9. Chia nhóm 2 em để thực hiện: Hoạt động 2. Đọc và giải thích cho bạn cách thực hiện phép cộng 345 + 127 Bài 45 : Tính giá trị của biểu thức (Tiếp theo) – Tài liệu hướng dẫn học Toán 3 – Tập 1B - Trang 71. Chia nhóm 4 em hoặc 6 em để thực hiện: Hoạt động 2. b) và c) Đọc và thảo luận : - Nếu muốn tính 15 + 25 trước, rồi nhân 4, ta nghĩ ra kí hiệu quy định mới. Học sinh tích cực hoạt động nhóm b. Tổ chức hoạt động học tập cá nhân bằng phiếu giao việc Học sinh Tiểu học khi học Toán cần thiết có những nội dung phải thực hiện học cá nhân, chẳng hạn để hình thành kỹ năng và rèn luyện kĩ năng tính với 4 phép tính. Nhờ những hoạt động học cá nhân mà học sinh đưa ra thông tin phản hồi chính xác về mức độ tiếp thu kiến thức, về kỹ năng thực hành, về phương pháp suy luận... Từ đó giúp cho giáo viên có kế hoạch dạy học hợp lí tiếp theo, giúp học sinh hoàn thiện kiến thức đã học. Hoạt động học tập cá nhân là rất cần thiết bởi, mục tiêu cuối cùng dạy học ở trên lớp là hình thành kiến thức kỹ năng tới từng học sinh. Ví dụ 1: Sau khi đã hình thành quy tắc tính giá trị biểu thức Bài 44 : Tính giá trị của biểu thức(tiếp theo) – Tài liệu hướng dẫn học Toán 3 – Tập 1B - Trang 69, yêu cầu học sinh thực hiện cá nhân các hoạt động 1, 2, 3, 4. c. Tổ chức các trò chơi học tập: Trò chơi học Toán đưa học sinh vào những tình huống vui vẻ khiến trẻ không thấy e sợ, thấy hứng thú và kích thích tính tò mò, vì vậy sẽ cuốn hút tâm lý của trẻ. Khi trẻ chơi sẽ là lúc bộc lộ rõ những khả năng hiểu biết kiến thức và ứng dụng kiến thức theo trình độ thực có của trẻ. Để lựa chọn trò chơi phù hợp, giáo viên cần xác định được mục đích của trò chơi là gì, hình thành, luyện tập, cũng cố kiến thức nào, giáo dục kĩ năng gì, phẩm chất gì ?... thì cần dựa vào mục tiêu bài học. Trò chơi đưa ra phải đa dạng, phong phú, hấp dẫn; luật chơi đơn giản dễ hiểu, dễ chơi, phải phù hợp với chủ đề bài học với đặc điểm và trình độ học sinh, với lượng thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp học, có tác dụng khích lệ tinh thần học tập cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, tránh bỏ rơi học sinh yếu kém ngoài cuộc. Đặc biệt, trò chơi phải không gây nguy hiểm cho học sinh và môi trường xung quanh. Không nên chọn những trò chơi chỉ được mặt vui nhộn, nhưng lại thiếu tác dụng giáo dục về kiến thức, phẩm chất cũng như kĩ năng học tập. Trò chơi phải được luân phiên thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán cho học sinh. Chẳng hạn trò chơi “Ai nhanh – Ai đúng” trong hoạt động 2 – Trang 76. Để trò chơi phát huy hiệu quả trong dạy học Toán, người giáo viên cần có sự chuẩn bị tốt; mọi học sinh đều hiểu trò chơi và tham gia dễ dàng, học sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng, tuân thủ luật chơi. Giáo viên cần quy định rõ thời gian, địa điểm chơi, không lạm dụng quá nhiều kiến thức và thời lượng bài học. Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu, từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi. Học sinh chơi trò chơi để làm bài tập 2 d. Vận dụng dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề vào dạy học Khi dạy về tính giá trị biểu thức có dấu ngoặc, giáo viên có 2 cách dạy như sau: Cách 1: giáo viên đưa ra quy tắc tính giá trị biểu thức có dấu ngoặc “khi tính g
Source: https://suadieuhoa.edu.vn
Category : Chuyện Vặt