Thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm mạnh: Nguyên nhân, triển vọng và giải pháp
Diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam từ đầu năm 2020 đến nay
Để có góc nhìn toàn cảnh về xu thế thị trường chứng khoán ( TTCK ) Việt Nam trong đối sánh tương quan với TTCK quốc tế, nhóm điều tra và nghiên cứu chọn mốc so sánh khởi đầu từ tháng 3/2020 đến nay. Đây là quy trình tiến độ dịch Covid-19 đã lan rộng ra toàn thế giới, gây ra sự sụt giảm của hầu hết những chỉ số chứng khoán trên quốc tế, trong đó có Việt Nam. Tại thời gian này, tác động ảnh hưởng của đại dịch đã phản ánh khá đầy đủ vào giá CP trên những thị trường, đồng thời xu thế tăng giá CP cũng mở màn hình thành. Qua quan sát diễn biến chỉ số chứng khoán sàn TP. Hồ Chí Minh ( VNIndex ) cùng những chỉ số chính của TTCK quốc tế, nhóm điều tra và nghiên cứu rút ra ba nhận định và đánh giá chính sau :Thứ nhất, trong quy trình tiến độ từ khoảng chừng giữa tháng 3/2020 đến hết tháng 10/2022, TTCK toàn thế giới ( trong đó có Việt Nam ) đều trải qua hai xu thế chính, đó là xu thế tăng giá lê dài ( từ khoảng chừng giữa tháng 3/2020 đến cuối tháng 12/2021 ), sau đó là khuynh hướng kiểm soát và điều chỉnh giảm ( từ đầu năm 2022 đến nay ) .Thứ hai, diễn biến chỉ số chứng khoán Việt Nam bám khá sát những chỉ số chứng khoán chính trên quốc tế về thời gian khởi đầu, kết thúc khuynh hướng tăng và mở màn khuynh hướng giảm ( thường chỉ chậm hơn thị trường quốc tế khoảng chừng 1-2 tuần ) .Thứ ba, mặc dầu bám khá sát diễn biến thị trường quốc tế theo hướng mức độ rủi ro đáng tiếc tăng lên ( Hình 2 ) ; nhưng mức độ tăng và giảm giá của VNIndex mạnh hơn so với đa phần những chỉ số chứng khoán quốc tế chính. Cụ thể, từ tháng 3/2020 đến cuối tháng 12/2021, VNIndex tăng từ khoảng chừng 662 điểm lên khoảng chừng 1500 điểm ( tăng 2,3 lần ), cao hơn tương đối so với mức tăng của chỉ số chứng khoán Mỹ ( đại diện thay mặt bởi S&P 500 ) trong cùng quy trình tiến độ ( 2,04 lần ), Châu Âu ( Euro Stoxx600 – 1,7 lần ), Châu Á Thái Bình Dương ( MSCI Asia – 1,6 lần ). Tương tự, từ đầu năm nay đến hết tháng 10/2022, VNIndex cũng giảm từ mức khoảng chừng 1500 điểm xuống 1027.36 điểm ( – 32 % ), cao hơn nhiều so với mức giảm của chứng khoán Mỹ ( S&P 500, giảm – 20 % ), Châu Âu ( Euro Stoxx600, – 14 % ), Châu Á Thái Bình Dương ( MSCI Asia, – 29 % ). Điều này cho thấy mức độ rủi ro đáng tiếc của TTCK Việt Nam là cao hơn so với những TTCK quốc tế chính. Mức độ rủi ro đáng tiếc cao của TTCK Việt Nam cũng được phản ánh qua chỉ số hợp đồng hoán đổi rủi ro đáng tiếc tín dụng thanh toán ( CDS ) của Việt Nam ( Hình 2 ) .
Thứ tư, sự sụt giảm của TTCK trong nước có vẻ trái ngược với diễn biến kinh tế vĩ mô của Việt Nam năm 2022, khi tăng trưởng GDP đạt mức cao (khoảng 8% – Theo dự báo của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, tăng trưởng GDP cả năm 2022 của Việt Nam có thể đạt 7,9–8,1% (kịch bản cơ sở) và tăng trưởng năm 2023 có thể đạt mức 6–6,5%), lạm phát kiểm soát ở mức thấp (CPI bình quân tăng khoảng 3,3%) so với thế giới (8,8% – Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam bình quân 10 tháng đầu năm chỉ tăng 2,89% so với cùng kỳ năm trước và cả năm 2022 dự báo khoảng 3,3-3,5%. Trong khi đó, theo dự báo của IMF, lạm phát tiêu dùng (CPI) thế giới sẽ đạt đỉnh vào cuối năm 2022, bình quân 8,8% năm 2022 xuống còn 6,5% trong năm 2023), tình hình sản xuất – kinh doanh, khả năng sinh lời của doanh nghiệp niêm yết cũng tương đối khả quan (số liệu từ báo cáo tài chính cho thấy lợi nhuận trước thuế của 200 doanh nghiệp lớn nhất trên TTCK Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2022 tăng 22% so với cùng kỳ). Điều này khiến tâm lý một số nhà đầu tư trở nên hoang mang, lo lắng, đồng thời đặt câu hỏi về nguyên nhân thị trường sụt giảm mạnh trong bối cảnh kinh tế khá tích cực như vậy.
Nguyên nhân TTCK Việt Nam sụt giảm mạnh
Theo nhóm nghiên cứu và điều tra, TTCK Việt Nam sụt giảm mạnh trong năm 2022 là vì một số ít nguyên do chính như : ( i ) khuynh hướng chung về kiểm soát và điều chỉnh giảm sau quy trình tiến độ tăng nóng ; ( ii ) rủi ro đáng tiếc, thử thách với kinh tế tài chính toàn thế giới cũng như Việt Nam ngày càng tăng ; ( iii ) dòng tiền vào TTCK sụt giảm ; ( iv ) áp lực đè nén giải chấp lớn ; ( v ) tâm ý, niềm tin của nhà đầu tư bị ảnh hưởng tác động trong toàn cảnh rủi ro đáng tiếc ngày càng tăng và nhất là sau những sai phạm trên thị trường bị khởi tố vừa mới qua ; ( vi ) yếu tố tâm ý đám đông tác động ảnh hưởng tới hành vi của nhà đầu tư, đặc biệt quan trọng là nhà góp vốn đầu tư cá thể .
Thứ nhất, thị trường đang bước vào giai đoạn điều chỉnh giảm mạnh sau hơn hai năm tăng khá nóng. Như đã phân tích, TTCK thế giới và Việt Nam đã trải qua giai đoạn tăng trưởng khá nóng trong 2 năm qua (từ quý 2/2020 đến hết quý 1/2022), thậm chí có thời điểm nhiều chỉ số chứng khoán lên mức cao nhất trong vòng 20-30 năm, chỉ số VNIndex cũng tạo lập mức đỉnh mới, cao nhất trong lịch sử (1528 điểm vào ngày 6/1/2022). Đà tăng trưởng này là kém bền vững khi chủ yếu dựa vào những yếu tố như dòng tiền rẻ từ các chính sách hỗ trợ trong đại dịch Covid-19, hiện tượng dùng đòn bẩy tài chính cao trong bối cảnh lãi suất thấp, tâm lý hưng phấn (có thời điểm trở nên “quá mức”) của nhiều nhà đầu tư, một số lĩnh vực như CNTT, thương mại điện tử, dược phẩm, (BĐS)…được hưởng lợi nhiều từ bối cảnh dịch bệnh. Ngoài ra, đối với Việt Nam, còn có những đặc điểm khác như mức độ rủi ro cao hơn do tâm lý đám đông, chất lượng nhà đầu tư còn thấp….như nêu dưới đây.
Do đó, khi toàn cảnh kinh tế tài chính toàn thế giới và trong nước biến hóa ( lạm phát kinh tế tăng cùng rủi ro đáng tiếc suy thoái và khủng hoảng kinh tế tài chính toàn thế giới ), thị trường kinh tế tài chính – tiền tệ toàn thế giới có xu thế thắt chặt, lãi suất vay và tỷ giá tăng, nhà đầu tư kiểm soát và điều chỉnh lại nhìn nhận, kỳ vọng của mình, việc TTCK toàn thế giới ( trong đó có Việt Nam ) kiểm soát và điều chỉnh mạnh là tất yếu, nhất là từ tháng 4/2022 đến nay ( Hình 1 ) .
Thứ hai, rủi ro, thách thức gia tăng đối với kinh tế toàn cầu và Việt Nam. Theo đánh giá trong báo cáo gần đây của TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, khả năng suy thoái nhẹ kinh tế toàn cầu năm 2023 ở mức trên 50% (từ 55-60%), trong đó có những đối tác lớn của Việt Nam (như với Mỹ, khả năng suy thoái 60-70%, EU 50-60%…), khiến thị trường xuất khẩu, đầu tư đang bị thu hẹp, trong bối cảnh CPI toàn cầu năm tới còn ở mức cao (tăng khoảng 6,5%, dù giảm từ mức 8,8% năm 2022), trước khi trở lại quỹ đạo 4% năm 2024 và khoảng 2,5-3% sau đó.
Đối với nền kinh tế tài chính Việt Nam, như TS. Ông Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển BIDV đã nêu trong một báo cáo giải trình đã công bố gần đây, nền kinh tế tài chính Việt Nam đương đầu với 5 rủi ro đáng tiếc, thử thách chính đến cuối năm 2022 và năm 2023 ; đó là : ( i ) từ bên ngoài, NHTW những nước liên tục tăng lãi suất vay nhằm mục đích trấn áp lạm phát kinh tế, khiến mặt phẳng lãi suất vay còn tăng, rủi ro đáng tiếc tỷ giá, nghĩa vụ và trách nhiệm nợ liên tục tăng, áp lực đè nén thanh khoản lớn hơn ; xung đột Nga – Ukraine còn tác động ảnh hưởng tới chuỗi đáp ứng và giá nguyên vật liệu, nguồn năng lượng, lương thực – thực phẩm ; Trung Quốc tăng trưởng thấp do Open thận trọng và tập trung chuyên sâu cơ cấu tổ chức lại, … ; năng lực suy thoái và khủng hoảng nhẹ kinh tế tài chính toàn thế giới năm 2023 là hiện hữu, thu hẹp thị trường xuất khẩu, góp vốn đầu tư và du lịch quốc tế ; ở trong nước, ( ii ) áp lực đè nén lạm phát kinh tế, lãi suất vay, tỷ giá tăng còn lớn trong toàn cảnh dư địa chính sách tiền tệ bị thu hẹp, doanh nghiệp khó khăn vất vả về dòng tiền, nghĩa vụ và trách nhiệm trả nợ, thị trường đầu ra ; ( iii ) giải ngân cho vay góp vốn đầu tư công và những chương trình tiềm năng vương quốc, Chương trình phục sinh dù được thôi thúc tuy nhiên còn chậm ; ( iv ) nợ xấu tiềm ẩn tăng vẫn là thử thách trong toàn cảnh triển vọng tăng trưởng kinh tế tài chính chậm lại, nhiều bộ phận doanh nghiệp còn khó khăn vất vả ; ( v ) thị trường chứng khoán, … đang kiểm soát và điều chỉnh giảm và lành mạnh hóa. Theo đó, dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2023 sẽ chậm lại, khoảng chừng 6-6, 5 % trong khi lạm phát kinh tế còn xu thế tăng ( CPI tăng khoảng chừng 4-4, 5 % ) .
Thứ ba, dòng tiền vào TTCK Việt Nam sụt giảm mạnh so với 2 năm trước. Hiện tượng này là do hầu hết những dòng tiền chính đổ vào TTCK Việt Nam thời gian qua đều giảm. Cụ thể, nhà đầu tư nước ngoài không còn được tiếp cận nguồn vốn giá rẻ dễ dàng như trước do các gói hỗ trợ đã chấm dứt, lãi suất tăng, thanh khoản thị trường tài chính toàn cầu eo hẹp hơn và hệ thống ngân hàng toàn cầu cũng thắt chặt điều kiện cho vay do e ngại rủi ro suy thoái, rủi ro tài chính toàn cầu tăng lên.
Ở trong nước, khối ngoại trong xu thế bán ròng với số lượng lần lượt là 3.500 tỷ VND trong tháng 9 và 1.300 tỷ VND trong tháng 10/2022. Tính chung 10 tháng năm 2022, khối ngoại đã bán ròng hơn 1.000 tỷ VND ( dù mức này còn thấp hơn nhiều so với những nước trong khu vực ). Bên cạnh đó, dòng tiền của nhà đầu tư trong nước cũng bị hạn chế trong toàn cảnh doanh nghiệp gặp khó khăn vất vả hơn trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng thanh toán do năng lượng kinh tế tài chính suy giảm, hạn mức tăng trưởng tín dụng thanh toán trấn áp ngặt nghèo ; phát hành trái phiếu doanh nghiệp ( TPDN ) khó khăn vất vả hơn sau những vấn đề vi phạm vừa mới qua và lao lý pháp luật theo hướng ngặt nghèo hơn. Ngoài ra, áp lực đè nén đáo hạn TPDN đang ngày càng tăng ( quý 4/2022 khoảng chừng 85.000 tỷ VND, năm 2023 là 271.000 tỷ VND và năm 2024 khoảng chừng 330.000 tỷ VND, theo Bộ Tài chính ), việc mua lại TPDN diễn ra nhiều hơn ( trong 10 tháng đầu năm 2022, đã có khoảng chừng 170 nghìn tỷ VND được mua lại trước hạn, tăng 70 % so với cùng kỳ ), một phần là do những doanh nghiệp phát hành phải triển khai nghĩa vụ và trách nhiệm này khi vi phạm giải pháp phát hành ), cộng thêm giải ngân cho vay góp vốn đầu tư công còn chậm, vòng xoay vốn chậm, ngân sách đầu vào tăng và doanh nghiệp nợ đọng lẫn nhau khiến 1 số ít doanh nghiệp phải : ( i ) tăng sử dụng vốn tự có, ( ii ) bán CP để cân đối dòng tiền mua lại TPDN đã phát hành, để duy trì sản xuất, kinh doanh thương mại, bù đắp phần ngân sách tăng thêm … v.v. Nhà góp vốn đầu tư cá thể cũng hạn chế vay ký quỹ để góp vốn đầu tư chứng khoán ( tính chung 9 tháng đầu năm 2022, dư nợ cho vay margin ở mức 153.000 tỷ VND, giảm 18 % so với cuối năm 2021 ), một phần là do những TCTD trấn áp cho vay, góp vốn đầu tư chứng khoán ngặt nghèo hơn và lãi suất vay cho vay ký quỹ tăng. Các dòng tiền khác như tiền lãi từ kinh doanh thương mại Bất Động Sản Nhà Đất, góp vốn đầu tư chứng khoán … cũng suy giảm. Điều này cũng phần nào lý giải nguyên do vì sao mà kêu gọi vốn của mạng lưới hệ thống TCTD tăng khá thấp ( khoảng chừng 4,6 % từ đầu năm đến nay so với mức tăng 5,5 % cùng kỳ năm 2021 và 8 % cùng kỳ năm 2020 ) .
Thứ tư, áp lực giải chấp: theo Fiinpro, dư nợ cho vay ký quỹ của các CTCK tính đến cuối quý 3/2022 ở mức 165.000 tỷ VND (mặc dù giảm 18% so với cuối năm 2021, song vẫn là mức khá cao so với giai đoạn trước năm 2019). Với lãi suất tăng, nghĩa vụ trả nợ tăng, giá cổ phiếu giảm mạnh, một số nhà đầu tư sở hữu nhiều cổ phiếu đã phải bán giải chấp (hiện tượng force sell) để bù đắp phần sụt giảm của giá cổ phiếu dùng thế chấp cho các khoản vay ký quỹ, cũng là để hạ tỷ lệ nợ về mức an toàn theo quy định. Vòng xoáy giải chấp này đã diễn ra rất mạnh trong tháng 10 vừa qua.
Thứ năm, niềm tin của nhà đầu tư chứng khoán giảm mạnh. Bên cạnh những tác động tiêu cực từ bối cảnh rủi ro vĩ mô, kinh tế – tài chính như nêu trên; tâm lý nhà đầu tư còn chịu ảnh hưởng từ những vụ việc vi phạm pháp luật, khởi tố lãnh đạo của một số doanh nghiệp lớn, cùng các biện pháp chấn chỉnh TTCK và BĐS trong thời gian qua, cùng với một số tin đồn thất thiệt trên mạng xã hội…v.v. Không chỉ cổ phiếu của những doanh nghiệp vi phạm mà còn cả những cổ phiếu khác cũng bị bán tháo do tâm lý lo ngại, thận trọng lan rộng, dẫn đến nhiều giá cổ phiếu giảm sàn. Việc xử lý, giải quyết và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, rào cản pháp lý còn chậm cũng có tác động nhất định đến thị trường và niềm tin của nhà đầu tư.
Thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm mạnh: Nguyên nhân, triển vọng và giải pháp – Ảnh 2.
Tâm lý thận trọng, ngại rủi ro đáng tiếc ngày càng tăng, dẫn đến nhiều nhà đầu tư lựa chọn những kênh góp vốn đầu tư ít rủi ro đáng tiếc hơn, bảo đảm an toàn hơn. Việc này dẫn đến hiện tượng kỳ lạ thị trường ” ngủ đông ” với giá trị thanh toán giao dịch trung bình mỗi phiên trên sàn HOSE trong 6 tháng gần nhất chỉ đạt khoảng chừng 15.000 tỷ VND, riêng tháng 10/2022 chỉ đạt 10.200 tỷ VND / phiên ( giảm 40-50 % so với mức trung bình hơn 21.000 tỷ VND / phiên năm 2021 ). Việc thanh khoản thị trường sụt giảm mạnh tạo ra vòng xoáy ảnh hưởng tác động xấu đi đến tâm ý nhà góp vốn đầu tư đang nắm giữ CP ( lo không bán được ), chuẩn bị sẵn sàng bán bằng mọi giá, từ đó kéo giá CP liên tục giảm sâu .
Thứ sáu, tâm lý đám đông khá phổ biến trên thị trường. Tác động của tâm lý đám đông trên TTCK Việt Nam còn đặc biệt mạnh hơn so với những quốc gia khác do ba nguyên nhân chính sau. Một là, cơ cấu nhà đầu tư ở Việt Nam có điểm khác biệt khi nhà đầu tư cá nhân chiếm tới 80% giao dịch trên thị trường (trong khi tỉ lệ này ở những quốc gia phát triển chỉ khoảng 40–50%). Theo thống kê, nhà đầu tư cá nhân cũng chiếm tỷ trọng khá lớn, nắm giữ 33% lượng TPDN tại Việt Nam, trong khi ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 1%…). Đặc điểm của nhóm nhà đầu tư cá nhân là đưa ra quyết định đầu tư đôi khi không dựa trên lý trí hay phân tích tài chính kỹ lưỡng, mà chủ yếu theo đám đông, thậm chí là tin đồn. Hai là, tỷ lệ sử dụng đòn bẩy tài chính khá cao (như nêu trên), cùng với tâm lý đám đông, đã tạo ra vòng xoáy giá xuống – bán giải chấp, khiến thị trường càng chịu áp lực bán mạnh mỗi khi có sự điều chỉnh. Ba là, TTCK Việt Nam cũng đã xuất hiện tình trạng một số doanh nghiệp thổi giá dẫn đến bị khởi tố, khiến nhà đầu tư có tâm lý không coi trọng những đánh giá, phân tích khách quan, do vậy họ thường xuyên chuyển đổi trạng thái rất nhanh từ “hưng phấn quá mức” đến “bi quan quá đà” mỗi khi thị trường có điều chỉnh.
Triển vọng TTCK Việt Nam hết năm 2022 và 2023
Bất chấp những khó khăn vất vả, rủi ro đáng tiếc và thử thách khiến thị trường sụt giảm mạnh thời hạn qua, theo TS. Ông Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển BIDV, TTCK Việt Nam vẫn có triển vọng phục sinh trong tháng cuối năm 2022 và tăng trưởng tích cực hơn năm 2023 ( khoảng chừng 15-20 % ) với 5 nguyên do chính sau đây .Một là, kinh tế tài chính Việt Nam năm 2023 dự báo tăng trưởng chậm lại, tuy nhiên vẫn ở mức khá cao. Theo dự báo của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, kinh tế tài chính Việt Nam sẽ tăng khoảng chừng 8 % năm 2022 và 6-6, 5 % năm 2023, trong toàn cảnh nhiều kinh tế tài chính toàn thế giới đang gặp nhiều khó khăn vất vả và đứng trước rủi ro tiềm ẩn suy thoái và khủng hoảng ( như nêu trên ) .Hai là, những nền tảng kinh tế tài chính vĩ mô và cân đối lớn cơ bản được giữ vững, trong tầm trấn áp. Bất chấp những áp lực đè nén lớn từ những rủi ro đáng tiếc trên quốc tế và trong nước, Việt Nam vẫn giữ được những nền tảng kinh tế tài chính vĩ mô như lạm phát kinh tế ở mức khá thấp, lãi suất vay và tỷ giá tăng trong tầm trấn áp. Tính đến ngày 31/10/2022, tỷ giá đã tăng khoảng chừng 8,85 % ( tức là VND đã mất giá 8,85 % so với USD ) tính từ đầu năm ( so với Yên Nhật – 28 % ; Nhân dân tệ Trung Quốc – 14,6 % ; Bath Thái – 13,3 % ; Rubi Indonesia – 9,11 % … ). Tương tự, CPI trung bình 10 tháng đầu năm tăng 2,89 % so cùng kỳ, cả năm 2022 dự báo tăng khoảng chừng 3,3 % ( trung bình toàn thế giới là 8,8 % ) và năm 2023 khoảng chừng 4-4, 5 % ( trung bình toàn thế giới khoảng chừng 6,5 % ). Nợ công, nợ quốc tế, thâm hụt ngân sách và nghĩa vụ và trách nhiệm trả nợ của nhà nước dù trong xu thế tăng lên trong trung hạn nhưng cơ bản vẫn trong ngưỡng bảo đảm an toàn .Ba là, nền kinh tế tài chính thực, nhất là hoạt động giải trí của doanh nghiệp cơ bản vẫn khả quan, dù khó khăn vất vả hơn. Hoạt động doanh nghiệp thời hạn qua hồi sinh mạnh nhờ những hoạt động giải trí kinh tế tài chính – xã hội được Open trở lại. Số doanh nghiệp ĐK xây dựng mới lũy kế 10 tháng tăng 34,3 % và số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động giải trí tăng 49 % so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận trước thuế của trên 200 doanh nghiệp niêm yết trong 9 tháng đầu năm tăng 22 % so cùng kỳ, cả năm 2022 dự báo tăng khoảng chừng 18 % và năm 2023 dự báo tăng khoảng chừng 10-15 % .Bốn là, những tổ chức triển khai xếp hạng tin tưởng quốc tế nhìn nhận triển vọng Việt Nam ở dạng ” tích cực ” trong trung hạn. Cuối tháng 10/2022 vừa mới qua, Tổ chức Fitch Ratings xếp hạng nhà phát hành ngoại tệ dài hạn của Việt Nam ở mức BB với triển vọng tích cực, trong đó nhìn nhận triển vọng tăng trưởng tích cực trong trung hạn ; nợ nhà nước, nợ quốc tế và thâm hụt ngân sách dù đang tăng lên, nhưng vẫn ở mức thấp so với nhóm vương quốc tương đương. Tổ chức này nhìn nhận rủi ro đáng tiếc bên ngoài so với Việt Nam gồm có chiến sự tại Ukraina, điều kiện kèm theo nguồn vốn toàn thế giới eo hẹp hơn, độ mở nền kinh tế tài chính lớn dễ bị tổn thương từ những cú sốc bên ngoài. Ở trong nước, áp lực đè nén lạm phát kinh tế và tỷ giá ngày càng tăng trong toàn cảnh đồng USD còn tăng giá và dự trữ ngoại hối giảm, rủi ro đáng tiếc từ khối DNNN còn yếu và tỷ suất bảo đảm an toàn vốn của mạng lưới hệ thống ngân hàng nhà nước còn thấp … là những điểm Việt Nam cần chú ý quan tâm cải tổ. Tương tự, đầu tháng 9/2022, Tổ chức xếp hạng Moody’s cũng đã nâng hạng tin tưởng vương quốc dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, với triển vọng không thay đổi do nhìn nhận cao sức mạnh nội tại của kinh tế tài chính Việt Nam và năng lực chống chịu tốt hơn của nền kinh tế tài chính. Về rủi ro đáng tiếc, Moody’s cũng cho rằng tỷ suất bảo đảm an toàn vốn thấp của mạng lưới hệ thống ngân hàng nhà nước, rủi ro đáng tiếc thị trường và những rủi ro đáng tiếc bên ngoài ( như suy thoái và khủng hoảng kinh tế tài chính ở một số ít đối tác chiến lược lớn, tình hình địa chính trị và Ngân sách chi tiêu ngày càng tăng … ) là những thử thách chính so với nền kinh tế tài chính Việt Nam hiện tại và trong năm tới. Những nhận diện rủi ro đáng tiếc này khá khớp so với những nhìn nhận của Nhóm tác giả .Năm là, giá chứng khoán Việt Nam đang ở mức khá mê hoặc khi chỉ số PE của thị trường đang ở vùng trũng thấp sau thời hạn kiểm soát và điều chỉnh giảm. Chỉ số PE của VNIndex hiện đang ở mức 10,2 ( ngang với vùng đáy lịch sử vẻ vang trong tiến trình dịch Covid-19 ). Mức này được nhìn nhận là mê hoặc khi nó thấp hơn so với hầu hết những thị trường khác trên quốc tế ( Hình 4 ). Bên cạnh đó, tài liệu quá khứ cho thấy, mỗi lần P. / E của VN-Index về 10, x thị trường thường Open sóng hồi can đảm và mạnh mẽ sau đó, nổi bật là quá trình 2020 – 2021. Dù toàn cảnh khác nhau và dù chỉ số PE chỉ là tìm hiểu thêm, nhà đầu tư còn nghiên cứu và phân tích nhiều chỉ số khác ( như EPS, P. / B … ) nhưng cũng là thời gian đáng chăm sóc .
Một số giải pháp phục hồi, phát triển lành mạnh TTCK Việt Nam
Để TTCK Việt Nam hoàn toàn có thể hồi sinh, tăng trưởng lành mạnh và bền vững và kiên cố hơn trong thời hạn tới ; Nhóm chuyên viên của Viện Đào tạo và Nghiên cứu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển BIDV khuyến nghị Quốc hội, nhà nước và những bộ, ngành, địa phương nên ưu tiên một số ít chủ trương, giải pháp sau .Thứ nhất, liên tục kiên cường không thay đổi kinh tế tài chính vĩ mô, trấn áp lạm phát kinh tế, bảo vệ những cân đối lớn của nền kinh tế tài chính. Theo đó, những cơ quan chức năng cần bám sát tình hình kinh tế tài chính, kinh tế tài chính quốc tế ; dữ thế chủ động nghiên cứu và phân tích, dự báo diễn biến thị trường kinh tế tài chính – tiền tệ quốc tế để có ngữ cảnh dữ thế chủ động ứng phó tương thích ; liên tục quản lý chủ trương tiền tệ theo hướng thận trọng, dữ thế chủ động, linh động, đồng nhất những công cụ nhằm mục đích quản lý và điều hành tỷ giá, lãi suất vay, tín dụng thanh toán ở mức tương thích ; tăng cường bình ổn, lành mạnh hóa những thị trường ( chứng khoán, trái phiếu, , ngoại hối, vàng, xăng dầu … ) ; tăng nhanh truyền thông online về Chi tiêu, lạm phát kinh tế, chủ trương … nhằm mục đích giảm thiểu kỳ vọng lạm phát kinh tế, thực trạng găm giữ và đầu tư mạnh. Đẩy mạnh và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, Open du lịch quốc tế hài hòa và hợp lý … cũng sẽ góp thêm phần tăng cung và giảm sức ép ngoại tệ, tỷ giá .Thứ hai, đẩy nhanh tiến hành những cấu phần trong Chương trình hồi sinh, những chương trình tiềm năng vương quốc và giải ngân cho vay góp vốn đầu tư công. Theo đó, những giải pháp kinh khủng, đồng nhất đã được nêu trong những thông tư, hướng dẫn của nhà nước cần được tráng lệ tuân thủ thực thi, phấn đấu hết năm, đạt khoảng chừng 30-35 % Chương trình phục sinh và khoảng chừng 85-90 % kế hoạch giải ngân cho vay góp vốn đầu tư công. Sớm điều tra và nghiên cứu năng lực liên tục dùng chủ trương tài khóa là nòng cốt ( đa phần là giảm thuế, phí … ) nhằm mục đích tương hỗ doanh nghiệp trong toàn cảnh dư địa chính sách tiền tệ ngày càng hạn hẹp .Thứ ba, đẩy nhanh triển khai xong và thực thi thể chế, tăng cường kiểm tra, giám sát hài hòa và hợp lý, nâng cao tính minh bạch và hiệu suất cao cho thị trường. Theo đó, những cơ quan chức năng chú trọng kiểm tra, giám sát tương thích ( nhiều quá và chồng chéo, kém hiệu suất cao lúc này là không tương thích ) ; lành mạnh hóa thị trường vốn, thị trường , thông nòng mạnh nguồn vốn CP, TPDN theo niềm tin của Nghị quyết 86 / NQ-CP ( ngày 11/7/2022 ) của nhà nước về tăng trưởng thị trường vốn, Chỉ thị 13 / CT-TTg ( ngày 29/8/2022 ) về tăng trưởng thị trường BĐS Nhà Đất, Chỉ thị 15 / CT-TTg ( ngày 16/9/2022 ) về không thay đổi kinh tế tài chính vĩ mô và Nghị định 65/2022 / NĐ-CP ( ngày 16/9/2022 ) về phát hành TPDN riêng không liên quan gì đến nhau ( sửa đổi Nghị định 153 ). Đảm bảo linh động, kịp thời, hiệu suất cao, phân phối tốt hơn nhu yếu thanh khoản, dòng tiền và nghĩa vụ và trách nhiệm trả nợ của những doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp Bất Động Sản Nhà Đất ; bảo vệ thanh khoản, bảo đảm an toàn mạng lưới hệ thống những tổ chức triển khai kinh tế tài chính – tín dụng thanh toán … v.v.Thứ tư, tăng cường củng cố tâm ý và niềm tin của nhà đầu tư. Các cơ quan chức năng, chủ thể phát hành cần nhanh gọn xử lý, bảo vệ quyền hạn chính đáng của nhà đầu tư ; giải quyết và xử lý nghiêm và xử lý kịp thời những vấn đề vi phạm lao lý, tung lời đồn thổi thất thiệt trên TTCK vừa mới qua. Các chủ trương, giải pháp cần đồng nhất, rõ ràng, có lộ trình và công khai minh bạch update tình hình tiến hành. Về vĩnh viễn, cần kiến thiết xây dựng và đồng điệu triển khai chương trình giáo dục kinh tế tài chính để nâng cao năng lượng của nhà đầu tư, giúp họ đưa ra quyết định hành động góp vốn đầu tư, sử dụng đòn kích bẩy kinh tế tài chính hài hòa và hợp lý, giảm thiểu tâm ý đám đông. Chú trọng tăng trưởng nhà đầu tư ( cá thể và tổ chức triển khai ) chuyên nghiệp, tăng trưởng những quỹ góp vốn đầu tư, quỹ hưu trí, quỹ tín thác BĐS … v.v. Các quỹ này cũng hoàn toàn có thể đóng vai trò dẫn dắt thị trường, hạn chế thực trạng tăng nóng hay giảm sâu do sự hứng phấn hay bi quan quá mức của 1 số ít nhà đầu tư. Các quỹ góp vốn đầu tư do đó sẽ giúp thị trường trở nên không thay đổi và tăng trưởng bền vững và kiên cố hơn, đồng thời cung ứng thêm kênh góp vốn đầu tư tương thích cho người dân .
Thứ năm, quan tâm kiểm soát rủi ro hệ thống, có tính liên thông giữa ngân hàng – chứng khoán – bảo hiểm – . Thực tiễn chứng minh bốn lĩnh vực này có mối quan hệ tương tác qua lại chặt chẽ với nhau. Một số vụ việc vi phạm trên TTCK vừa qua đã cho thấy tính phức tạp, liên thông trong mối quan hệ này. Theo đó, các cơ quan chức năng cần tăng cường phối hợp chính sách hiệu quả, nhìn nhận các hiện tượng, trao đổi thông tin và quản lý, giám sát hệ thống tài chính – BĐS trong mối quan hệ tổng thể, trước mắt và lâu dài, thay vì rời rạc, cục bộ, giật cục và ngắn hạn.
Cuối cùng, nhà đầu tư cần rất là bình tĩnh, không nên rơi vào vòng xoáy bán lấy được, không nên dựa vào tin đồn thổi thất thiệt, tâm ý đám đông, mà cần kiểm chứng, chớp lấy sát tình hình và triển vọng của doanh nghiệp, đa dạng hóa kênh góp vốn đầu tư, hạn chế đòn kích bẩy và kiên trì nâng cao kiến thức và kỹ năng, kinh nghiệm tay nghề góp vốn đầu tư chứng khoán là rất thiết yếu .
H. Kim (ghi theo báo cáo của Nhóm tác giả)
Nhịp sống thị trường
Source: https://suadieuhoa.edu.vn
Category : Tin tức