Hai Bà Trưng – Wikipedia tiếng Việt
Hai Bà Trưng (13 tháng 9 năm 14 – 5 tháng 3 năm 43) là tên chỉ chung hai chị em Trưng Trắc (徵側) và Trưng Nhị (徵貳), hai người phụ nữ được đánh giá là anh hùng dân tộc của người Việt.[5] Trong sử sách, hai bà được biết đến như là những thủ lĩnh khởi binh chống lại chính quyền đô hộ của Đông Hán, lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và Trưng Trắc tự phong là Nữ vương. Thời kì của hai Bà xen giữa thời kỳ Bắc thuộc lần 1 và Bắc thuộc lần 2 trong lịch sử Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử, với tên gọi Trưng Nữ vương (徵女王).
Xuất thân và tên gọi
[sửa|sửa mã nguồn]
[sửa|sửa mã nguồn]
Nguồn sử liệu đầu tiên đề cập đến chị em Hai Bà Trưng là cuốn Hậu Hán Thư viết vào thế kỷ thứ 5 (Công nguyên) bởi học giả Phạm Diệp, cuốn sách nói về lịch sử nhà Hán từ năm 6 đến năm 189 Công nguyên. Các tài liệu cổ của Trung Quốc đề cập đến hai chị em Bà Trưng khá ngắn gọn, được tìm thấy trong hai chương của Hậu Hán Thư mô tả về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà thời kỳ nhà Tây Hán.
Ở quyển 86 của Hậu Hán Thư, phần “Tây Nam di liệt truyện” có viết:[6]
Bộ sử cổ nhất của Việt Nam đề cập đến Hai Bà Trưng là Đại Việt sử lược. Theo sách này, thời Việt Nam còn là Giao Chỉ, Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở huyện Mê Linh, lấy chồng là Thi Sách ở huyện Chu Diên.
Bạn đang đọc: Hai Bà Trưng – Wikipedia tiếng Việt
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hai Bà Trưng vốn họ Lạc, là dòng dõi Lạc tướng ở Mê Linh. Chồng bà Thi Sách cũng là con Lạc tướng, con hai nhà tướng kết hôn với nhau. Khi lên ngôi, Hai Bà mới đổi sang họ Trưng.[8]
Truyền thuyết xác nhận quê nội Hai Bà ở làng Hạ Lôi và quê ngoại Hai Bà ở làng Nam Nguyễn thuộc Ba Vì, TP.HN. [ 9 ] Mẹ Hai Bà là Man Thiện, người được biết đến qua thần phả, còn được ghi với tên gọi Trần Thị Đoan .
Tuy nhiên, theo các sử gia hiện đại, thời đầu Công nguyên, người Việt chưa có họ. Tên Trần Thị Đoan của mẹ Hai Bà chỉ là tên thần phả đặt sau này, khoảng thế kỷ 17, 18. Cả cái tên Man Thiện có nghĩa là người Man tốt có thể do người Hán gọi.[9] Theo một số dẫn chứng biện giải không rõ luận cứ và nguồn gốc cho rằng, tên của Hai Bà có nguồn gốc từ nghề dệt lụa truyền thống của Việt Nam, tương tự như cách đặt tên theo các loài cá của các vua nhà Trần sau này vốn xuất thân từ nghề chài lưới. Xưa kia nuôi tằm, tổ kén tốt gọi là kén chắc, tổ kén kém hơn gọi là kén nhì; trứng ngài tốt gọi là trứng chắc, trứng ngài kém hơn gọi là trứng nhì. Do đó, theo Nguyễn Khắc Thuần, tên Hai Bà vốn rất giản dị là Trứng Chắc và Trứng Nhì, phiên theo tiếng Hán gọi là Trưng Trắc và Trưng Nhị.[10][11] Khi chữ Hán chưa được truyền bá hoặc chưa có điều kiện thấm sâu vào nhận thức xã hội thì xu hướng đặt tên người rất giản dị và mộc mạc, thể hiện sự gắn bó với cuộc sống đời thường và xu hướng này còn tiếp tục trong các thế hệ sau.[11] Sau này các sử gia phương Bắc viết chệch tên Hai Bà thành Trắc và Nhị với nghĩa “phản trắc” và “nhị tâm”.[12] Tuy nhiên, những luận điểm trên hoàn toàn thiếu nguồn gốc và sự chứng minh một cách khoa học, mà thiên về tự biện giải của tác giả.
Tên của ông Thi Sách, theo Thủy kinh chú của Trung Quốc xác định: chồng bà Trưng Trắc tên là Thi.[13]
Cuộc nổi dậy của Trưng Trắc, theo Hán thư cùng Việt sử ghi lại, chỉ gói gọn trong lý do vì Thái thú khi ấy là Tô Định dùng biện pháp khắc chế, nên Trưng Trắc cùng phẫn mà nổi dậy. Hán thư không đưa ra lý do Thi Sách bị giết, trong khi Việt sử thì chỉ có Đại Việt sử ký toàn thư ghi lý do này, Đại Việt sử lược trước đó thì không.
Theo một số ít học giả như Đào Duy Anh, Trần Quốc Vượng …, do chủ trương đồng nhất gắt gao và bóc lột khắc nghiệt của nhà Đông Hán so với người Việt tại Giao Chỉ đương thời, [ 14 ] [ 15 ] những Lạc tướng người Việt link với nhau để chống lại nhà Hán. Trưng Trắc kết hôn với con trai Lạc tướng ở Chu Diên là Thi Sách, hai nhà cùng có chí hướng chống Hán. Khoảng năm 39-40, nhằm mục đích trấn áp người Việt chống lại, Thái thú Tô Định giết Thi Sách .Trưng Trắc và những Lạc tướng càng căm thù, cùng Trưng Nhị mang quân bản bộ về giữ Hát Giang nay là xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, TP. Hà Nội. [ 16 ] Sau một thời hạn sẵn sàng chuẩn bị, tháng 2 năm 40, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị chính thức phát động khởi nghĩa chống lại nhà Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của nhiều đội quân và nhân dân những nơi thuộc Âu Lạc và Nam Việt cũ. [ 17 ] [ 18 ] Quân Hai Bà đánh hãm trị sở Luy Lâu. Tô Định phải chạy về Nam Hải ( Trung Quốc ) .
Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai Bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương, hay còn gọi là Trưng Vương.
Hai Bà Trưng quản lý chủ quyền lãnh thổ vùng Lĩnh Nam của người Việt, tương tự với Bộ Giao Chỉ của nhà Hán trong ba năm. Thời gian quản lý ngắn ngủi và phải toan tính sẵn sàng chuẩn bị chống lại đại chiến của nhà Hán khiến Hai Bà Trưng không có hoạt động giải trí gì đáng kể trong việc kiến thiết xây dựng chủ quyền lãnh thổ mà mình quản lý .
Bản đồ Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng
Do thời hạn quản lý của Hai Bà Trưng không dài và không còn tài liệu để Phục hồi lại mạng lưới hệ thống tổ chức triển khai cỗ máy thời Hai Bà Trưng. Tuy nhiên, những sử gia địa thế căn cứ trên những sử liệu tương quan đến sự quản lý của nhà Hán trước và sau thời Hai Bà Trưng cho rằng, về cơ bản Hai Bà Trưng vẫn duy trì mạng lưới hệ thống quản trị của nhà Hán trước đó, do người Việt nắm giữ [ 19 ]. Các Q., huyện do nhà Hán lập ra trên đất Nam Việt cũ .Ghi chép về Mê Linh trong hai tài liệu cổ nhất của Nước Ta, đều thuộc thời Hậu Lê và cách nhau 44 năm đã xích míc về kinh đô của Hai Bà : [ 20 ]
Dư địa chí của Nguyễn Trãi (năm 1434) chép: Mê Linh là Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc bây giờ… huyện Phúc Lộc là Mê Linh ngày xưa
Đại Việt sử ký toàn thư (năm 1479) chép: Thời Tây Hán trị sở của thái thú (Giao Châu) tại Long Uyên tức Long Biên. Thời Đông Hán tại Mê Linh tức Yên Lãng.
Do đó, ba thế kỷ sau Lê Quý Đôn viết Vân đài loại ngữ (năm 1773) rất lộn xộn, chép Yên Lãng thuộc về ba quận khác nhau cùng tồn tại trong một thời kỳ: Mê Linh nay là Yên Lãng… Phong Khê là đất Yên Lãng… Chu Diên nay là Yên Lãng
Cương mục nhà Nguyễn chép: Mi Linh là Phong Châu… ở địa phận hai huyện Phúc Lộc và Đường Lâm
Do đó đã Open những tranh cãi về Mê Linh, một số ít cho rằng Mê Linh ở phía nam sông Hồng và số khác cho là ở phía bắc, ngay gần thành Cổ Loa của Thục Phán. Ở huyện Yên Lãng này cũng có làng Hạ Lôi nhưng không có tên Nôm. Năm 1977 huyện này được đổi tên thành Mê Linh. [ 21 ]
Từ năm 1973-1990, nhà nghiên cứu Đinh Văn Nhật [22] sử dụng phương pháp địa lý học lịch sử để nghiên cứu về các địa danh thời Hai Bà Trưng. Ông sau đó kết luận huyện Mê Linh nằm ở phía nam sông Hồng, cụ thể là phía tây sông Đáy của Hà Nội. Ở đây có các địa danh là Cấm Khê, Hạ Lôi, Đền Hát Môn và Miếu Mèn thờ mẹ Hai Bà là Bà Man Thiện. Các bài viết đều đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
- Quận Giao Chỉ
Quận Giao Chỉ được xác lập vị trí là đất Bắc Bộ Nước Ta và một phần phía tây-nam tỉnh Quảng Tây ( Trung Quốc ) lúc bấy giờ ( từ sông Uất hay Tây Giang về phía nam ), trừ đi những phần đất sau :
Quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện ( 縣 ) theo Đào Duy Anh như sau [ 24 ] :
Quận trị Giao Chỉ lần lượt đặt ở Mê Linh, Luy Lâu và Quảng Tín .
- Quận Cửu Chân
Quận Cửu Chân thời Hán được xác lập vị trí từ góc tây-nam tỉnh Tỉnh Ninh Bình đến tỉnh TP Hà Tĩnh lúc bấy giờ [ 25 ] .Quận trị Cửu Chân được xác lập ở huyện Tư Phố. Cửu Chân gồm có bảy huyện như sau [ 26 ] :
- Quận Nhật Nam
Vị trí Nhật Nam được xác lập là từ Quảng Bình tới địa giới Tỉnh Bình Định, Phú Yên lúc bấy giờ [ 27 ] .Nhật Nam gồm có năm huyện như sau [ 28 ] :
- Quận Hợp Phố
Quận Hợp Phố gồm năm huyện : Hợp Phố ( 合浦 ), Từ Văn ( 徐聞 ), Cao Lương ( 高涼 ), Lâm Nguyên ( 臨元 ), Chu Nhai ( 朱崖 ) .Hợp Phố được xác lập vị trí là vùng duyên hải vịnh Bắc Bộ tỉnh Quảng Tây và địa cấp thị Trạm Giang tỉnh Quảng Đông .
- Quận Thương Ngô
Quận Thương Ngô gồm có 10 huyện: Quảng Tín (廣信), Tạ Mộc (謝沐), Cao Yếu (高要), Phong Dương (封陽), Lâm Hạ (臨賀), Đoan Khê (端谿), Phùng Thừa (馮乘), Phú Xuyên (富川), Lệ Phổ (荔浦), Mãnh Lăng (猛陵).
Thương Ngô thời Hán được xác lập vị trí tương tự với khu vực dãy núi Đô Bàng tỉnh Quảng Tây, phía đông núi Đại Dao, địa cấp thị Triệu Khánh tỉnh Quảng Đông, phía tây huyện cấp thị La Định, huyện Giang Vĩnh tỉnh Hồ Nam, phía nam huyện Giang Hoa, huyện Đằng tỉnh Quảng Tây, phía bắc thành phố cấp huyện Tín Nghi tỉnh Quảng Đông .
- Quận Uất Lâm
Quận Uất Lâm thời Hán gồm có 12 huyện : Bố Sơn ( 布山 ), An Quảng ( 安廣 ), Hà Lâm ( 河林 ), Quảng Đô ( 廣都 ), Trung Lưu ( 中留 ), Quế Lâm ( 桂林 ), Đàm Trung ( 譚中 ), Lâm Trần ( 臨塵 ), Định Chu ( 定周 ), Lĩnh Phương ( 領方 ), Tăng Thực ( 增食 ), Ung Kê ( 雍雞 ) .Uất Lâm được xác lập vị trí là từ những địa cấp thị Nam Ninh, Bách Sắc đến đại bộ phận Liễu Châu, phía bắc Ngọc Lâm, phía đông và phía nam Hà Trì đều thuộc Quảng Tây .
- Quận Nam Hải
Quận Nam Hải gồm có sáu huyện : Phiên Ngung ( 番禺 ), Trung Túc ( 中宿 ), Bác La ( 博羅 ), Long Xuyên ( 龍川 ), Tứ Hội ( 四會 ), Yết Dương ( 揭陽 ) .Nam Hải được xác lập vị trí bao trùm tỉnh Quảng Đông và phần đất phía đông nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc lúc bấy giờ .Như vậy tổng số huyện thành đương thời chỉ có 54 huyện. Ngô Sĩ Liên dẫn thêm hai huyện mới đặt trong Q. Giao Chỉ là Vọng Hải và Phong Khê do Mã Viện mới tách đặt sau thời Hai Bà Trưng, được chép gộp vào list những huyện thuộc Giao Chỉ lúc đó, tổng số là 56 huyện thành [ 29 ] .
Những mặt khác[sửa|sửa mã nguồn]
Theo Viện Sử học, đội ngũ các cánh quân mới tập hợp của các Lạc hầu, Lạc tướng, thủ lĩnh địa phương chưa có điều kiện tổ chức theo kiểu chính quy thành các đơn vị, quân thứ kiểu hệ thống, cấp bậc quy củ như các triều đại sau này. Thành phần họ gồm bình dân trong kẻ, chạ… gia nô, nô tỳ thuộc quyền quản lý của các thủ lĩnh vùng. Các sử gia nhìn nhận lực lượng mới họp này chưa được tổ chức chặt chẽ nên có những yếu điểm bộc lộ trong cuộc chiến chống Mã Viện sau này[30].
Sử sách không ghi lại bất cứ hoạt động chính trị nào khác thời kì này. Ngoại trừ Viện Sử học ghi lại một sự kiện duy nhất liên quan tới kinh tế thời Hai Bà Trưng là Trưng vương cho xá thuế trong hai năm cho dân chúng. Luật pháp chưa có văn bản chính thức. Các sử gia xác định luật thời Hai Bà Trưng là một thứ “tập quán pháp”, “luật tục” của nhiều đời trước được khôi phục và sử dụng điều hành xã hội[31][32].
Sách Hậu Hán thư của Phạm Diệp dẫn lời tâu báo của Mã Viện lên Hán Quang Vũ Đế rằng luật Việt khác với luật nhà Hán đến hơn 10 điều[33][34].
Ngày 30 tháng 1 năm Tân Sửu ( 41 ), nhà Hán thấy Trưng Trắc xưng Vương dấy quân đánh lấy những thành ấp, nên hạ lệnh cho những Q. Trường Sa, Hợp Phố và Giao Châu sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường giao thông, thông những núi khe, chứa thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó tướng, chỉ huy đạo quân lớn khoảng chừng 2 vạn người, chia làm 2 cánh thủy, bộ sang xâm lược .Cánh quân bộ tiến vào vùng Đông Bắc Mã Viện tiến theo đường ven biển, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc ( ở phía tây Tây Nhai của La Thành ) [ 35 ] đánh nhau với Hai Bà. Quân Nam bấy giờ ô hợp, rất nhiều thủ lĩnh không phục hai vua là đàn bà, lớp tan rã, lớp tự ly khai hoặc đầu hàng quân Hán. Hai Bà thấy thế giặc mạnh lắm, không chống nổi, bèn lui quân về giữ Cấm Khê ( sử chép là Kim Khê ) .Năm Quý Mão ( 43 ), Hai Bà Trưng chống cự lại với quân nhà Hán ở Cấm Khê, thất thế, đều tử trận. Theo truyền thuyết thần thoại Nước Ta, hai bà đã nhảy xuống sông Hát ( Hát Môn, Phúc Thọ, TP.HN ) tự tử để bảo toàn khí tiết. Còn theo Hậu Hán thư, sách sử của Trung Quốc, hai bà đã bị quân Mã Viện bắt được và chặt đầu đem về Lạc Dương [ 36 ] .
Tướng Đô Dương tiếp tục cầm quân chống lại quân Hán đến cuối năm 43. Mã Viện đuổi theo đánh quân còn sót lại huyện Cư Phong, cuối cùng lực lượng này cũng bị dẹp. Ngoài các cừ súy bị giết, hơn 300 cừ súy người Việt bị bắt và đày sang Linh Lăng (Hồ Nam). Mã Viện thu gom, phá hủy nhiều trống đồng và đúc rồi dựng cột đồng (tương truyền ở trên động Cổ Lâu châu Khâm)[37] làm giới hạn biên giới của nhà Hán, và khắc lên đó dòng chữ thề: “Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt” (Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt)[38].
Từ đây, nước Việt lại thuộc quyền trấn áp của nhà Hán, khởi đầu thời Bắc thuộc lần 2. Thời kỳ Hai Bà Trưng chỉ lê dài được hơn ba năm .Sau khi Hai Bà Trưng thất bại, chính sách giao quyền quản lý cấp huyện ở Bộ Giao Chỉ cho những Lạc tướng không còn, quyền lực tối cao của những Lạc tướng, Lạc hầu bị thủ tiêu. Theo như cách gọi của sử gia Madrolle thì chính sách bảo lãnh chấm hết, mở màn chính sách quản lý trực tiếp. Nhà Hán đặt quan lại quản lý đến cấp huyện [ 39 ] .
Sử gia Lê Văn Hưu viết trong Đại Việt sử ký toàn thư[8]:
- Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy.
Theo sử gia Nguyễn Nghiễm thời Lê trung hưng [ 40 ] :
- Trưng Vương là dòng dõi bậc thần minh, nhân lòng dân oán hận, nổi giận, khích lệ người cùng chung mối thù. Nghĩa binh đi đến đâu gần xa đều hưởng ứng, 65 thành ngoài miền Ngũ Lĩnh một buổi sớm đều thu phục được, người dân chịu khổ từ lâu, không khác gì đã ra khỏi vực thẳm được thấy mặt trời. Bà quả là bậc anh hùng khí khái hơn người. Tuy rằng quân mới tập hợp, bị tan rã khi đã thành công, cũng làm hả được lòng căm phẫn của thần dân một chút… Khi đất nước bị chìm đắm, thì hầu như lại được khôi phục do một nữ chúa ở Mê Linh. Lúc đó bậc con trai mày râu phải cúi đầu ngoan ngoãn tuân theo không dám làm gì, chẳng đáng thẹn lắm sao?
Vua Tự Đức viết trong Khâm định Việt sử Thông giám cương mục[41]:
- Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm!
Hai Bà Trưng và hàng chục, hàng trăm nữ tướng tham gia trào lưu kháng Hán, được người Nước Ta văn minh xem là một hình tượng đáng tuyên dương và tôn sùng. Theo quan điểm này, việc khởi nghĩa này đã góp thêm phần tạo nên truyền thống cuội nguồn anh hùng quật cường cho giới nữ và cho cả dân tộc bản địa Nước Ta. Nguyên lý Mẹ và sắc thái bình quyền trai gái in đậm nét trong nền văn hóa truyền thống dân tộc bản địa, dân gian Nước Ta đến nỗi nhiều học giả cho rằng đấy là điểm tiêu biểu vượt trội không còn phải bàn cãi gì nữa của Nước Ta so với Trung Quốc và phương Tây. [ 42 ]
“ | … trong khoảng năm thứ 40 sau Công nguyên, hai chị em người Việt Nam là Hai Bà Trưng đã đứng lên khởi nghĩa chống ngoại xâm, thức tỉnh tinh thần độc lập. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử mà người dân Việt Nam đứng lên vì nền độc lập cũng như niềm tự hào của mình. | ” |
— Tổng thống Mỹ Donald Trump[43] |
Các khu công trình gắn liền với tên tuổi của Hai Bà Trưng[sửa|sửa mã nguồn]
Đền thờ Hai Bà Trưng tại Hà Nội
Voi diễn hành nhân ngày Lễ Hai Bà Trưng 7 tháng 3 năm 1957 tại Sài Gòn
Hiện nay, trên cả nước Nước Ta có 103 nơi thờ Hai Bà Trưng và những tướng lĩnh ở 9 tỉnh, thành phố như : Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thành Phố Hà Nội, Hải Phòng Đất Cảng, Tỉnh Thái Bình, Tỉnh Ninh Bình trong đó riêng huyện Mê Linh có 25 di tích lịch sử ở 13 xã. [ 44 ]
Trong văn hóa truyền thống đại chúng[sửa|sửa mã nguồn]
- Các câu chuyện về Hai Bà Trưng, Bà Triệu, và các nữ tướng khác được một số sử gia trích dẫn để làm bằng chứng cho luận điểm rằng xã hội Việt Nam trước khi bị Hán hóa là một xã hội mẫu hệ (hay còn gọi là chế độ mẫu hệ), trong đó phụ nữ có thể giữ vai trò lãnh đạo mà không gặp trở ngại.
- Nhiều tác phẩm, sách, kịch, nhạc… viết hoặc dựa vào Hai Bà làm nhân vật chính. Vở cải lương Tiếng trống Mê Linh về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà là một vở cải lương kinh điển tại Việt Nam.
Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn kể về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã trở thành quen thuộc đối với người Việt:
- Bà Trưng quê ở Châu Phong
- Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
- Chị em nặng một lời nguyền
- Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
- Ngàn Tây nổi áng phong trần
- Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
- Hồng quần nhẹ bước chinh yên
- Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành
- Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh
- Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
- Ba thu gánh vác sơn hà
- Một là báo phục hai là Bá Vương
- Uy danh động tới Bắc Phương
- Hán sai Mã Viện lên đường tấn công
- Hồ Tây đua sức vẫy vùng
- Nữ nhi địch với anh hùng được sao!
- Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo
- Hai Bà thất thế cùng liều với sông!
- Trước là nghĩa, sau là trung
- Kể trong lịch sử anh hùng ai hơn.
Bài hát Hồn tử sĩ có nguyên bản là Hát Giang Trường Hận, gợi nhớ đến công ơn và sự hy sinh của Hai Bà Trưng.
Voi diễn hành nhân ngày Lễ Hai Bà Trưng năm 1961 tại Sài Gòn
Hàng năm, vào ngày 6 tháng 2 âm lịch, ngày giỗ hay tiệc tùng tưởng niệm Hai Bà được tổ chức triển khai là ngày lễ chính thức của Nước Ta Cộng hòa từ năm 1955 đến 1975 có diễu hành. [ 47 ] Ngày này cũng là Ngày Phụ nữ Nước Ta của miền Nam Nước Ta dưới chính thể Nước Ta Cộng hòa. Từ năm 1976 trở đi, sau khi hai miền thống nhất thì ngày lễ Hai Bà Trưng không còn là ngày lễ ở Nước Ta nữa .Về sau, về truyền thuyết thần thoại Hai Bà Trưng đã được lan rộng khắp dân cư Nước Ta nhiều thế hệ sau này, và hình tượng của 2 bà liên tục được đưa vào những game show dân gian, truyện tranh và tác phẩm thơ văn .
Tướng lĩnh của Hai Bà Trưng[sửa|sửa mã nguồn]
Theo 1 số ít nguồn dã sử, cuộc khởi nghĩa Trưng Vương có đến hơn 70 tướng lĩnh, trong đó có nhiều thủ lĩnh những nghĩa quân địa phương, hiện còn nhiều đền thờ lập Thành hoàng làng ở miền Bắc Nước Ta và miền Nam Trung Quốc. Đặc biệt, trong số này có nhiều nữ tướng lĩnh [ 48 ] .
- Nam tướng
- Đại Việt sử lược.
- Đại Việt sử ký toàn thư.
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
- Viện Sử học (2001), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội.
- Nguyễn Khắc Thuần (2005), Danh tướng Việt Nam, Nhà Xuất bản Giáo dục.
- Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2008), Tổng tập văn học dân gian người Việt, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội.
- Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh (1991), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nhà Xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp.
- Viện Sử học (1988), Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam.
- Đào Duy Anh (2005), Lịch sử cổ đại Việt Nam, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin.
- Ngô Thì Sĩ (2011), Đại Việt sử ký tiền biên, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin.
- Lê Đình Sỹ chủ biên (2010), Thăng Long – Hà Nội những trang sử vẻ vang chống ngoại xâm, Nhà Xuất bản Hà Nội.
- Lê Văn Siêu (2006), Việt Nam văn minh sử, Nhà Xuất bản Văn học.
- Châu Hải Đường (2018). An Nam Truyện – Ghi chép về Việt Nam trong chính sử Trung Quốc xưa. Nhà xuất bản Hội nhà văn.
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://suadieuhoa.edu.vn
Category : Hỏi Đáp